Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

Kiến thức (4)


Blog EntryDec 28, '09 11:45 PM
for everyone
Mới đây, một nhà khoa học tại ĐH Duke tuyên bố đã khám phá ra bí mật đằng sau sự phổ biến của tỷ lệ vàng, đó chính là do quá trình tiến hóa.
Tỷ lệ vàng mô tả một hình chữ nhật với chiều dài bằng khoảng gấp rưỡi chiều rộng (chính xác là 1,681), còn được biết đến với tên gọi tỷ số vàng, con số vàng hay tỷ lệ thần thánh...

Tỷ lệ này là nguồn cảm hứng của nhiều nhà toán học và các nghệ sĩ trong nhiều thế kỷ. Người Ai Cập cổ đã dùng nó để thiết kế các Kim tự tháp, các kiến trúc cổ Athen đã dựa rất nhiều vào nó và nhiều nghệ sĩ đã có những tác phẩm lấy khuôn mẫu từ tỷ lệ vàng. Leonardo da Vinci đã dùng tỷ lệ này vẽ chân dung Mona Lisa và Vitruvian Man.

Trong hội họa, tỷ lệ vàng xuất hiện rất nhiều dưới dạng hình chữ nhật vàng. Bắt đầu bằng việc vẽ một hình vuông có cạnh là a rồi chia đôi một cạnh ra, tiếp theo lấy trung điểm cạnh đó, vẽ một đường tròn có bán kính là khoảng cách từ trung điểm đó đến một trong hai đỉnh còn lại của hình vuông, cắt cạnh chứa trung điểm tại một điểm, nối điểm đó như hình vẽ ta sẽ có một hình chữ nhật vàng.

Mới đây, một nhà khoa học tại ĐH Duke tuyên bố đã khám phá ra bí mật đằng sau sự phổ biến của tỷ lệ vàng, đó chính là do quá trình tiến hóa.
Một hình chữ nhật vàng có độ dài các cạnh tuân theo tỉ lệ vàng

Adrian Bejan, giáo sư cơ khí tại ĐH Duke cho rằng tỷ lệ vàng là tỷ lệ hình học đẹp nhất vì mắt người có thể quét nhanh nhất một hình ảnh khi nó có dạng một hình chữ nhật mà độ dài các cạnh tuân theo tỷ lệ vàng.

"Khi bạn nhìn ngắm những tác phẩm nghệ thuật và các công trình kiến trúc, bạn sẽ thấy tỷ lệ vàng ở khắp mọi nơi", Bejan cho biết "Mắt người nhận thông tin hiệu quả hơn nhiều khi nhìn từ trái sang phải hoặc từ phải sang trái so với theo chiều dọc".
Đền Parthenon cũng ẩn chứa hình chữ nhật vàng trong thiết kế

Năm 1996, Bejan đã phát triển lý thuyết "Quy luật hình thành" (Constructal Law), trong đó ông cho rằng mỗi hệ thống hữu hạn (lưu thông, dịch chuyển bên trong) phải giảm thiểu tính không hoàn hảo và cách tốt nhất để làm được điều đó là phân phối tối ưu tính không hoàn hảo đó cho hệ thống (chứ không phải triệt tiêu chúng).

Sự phân phối tối ưu tính không hoàn hảo sẽ tạo nên hình dáng của hệ thống, chính là quá trình tiến hóa. Lý thuyết này cho rằng các hệ lưu thông như phế quản và các đồng bằng sông được hình thành trong quá trình tiến hóa để làm cho dòng lưu chuyển trở nên dễ dàng hơn nhờ phân phối tính không hoàn hảo tối ưu.

Bejan tin rằng lý thuyết này có thể giải thích được sự phổ biến của tỷ lệ vàng trong tự nhiên là do quá trình tiến hóa dựa trên phân phối tính không hoàn hảo.
Khuôn mặt nàng Mona Lisa nằm gọn trong một hình chữ nhật vàng
Bejan lập luận rằng sự quan sát thế giới bên ngoài cơ bản là theo phương ngang, không khác biệt giữa một người đang ngắm một bức tranh hay một con linh dương đang ngắm nhìn đồng cỏ. Đối với con linh dương, nguy hiểm thường rình rập từ phía sau chứ không phải từ phía trên hay phía dưới. Do đó, tầm nhìn của nó sẽ tiến hóa theo chiều hướng mở rộng phương nhìn ngang. Tầm nhìn đã phát triển, theo hướng làm con thú trở nên nhanh nhạy hơn, thông minh hơn, an toàn hơn.

Còn ở con người, hình dáng bầu dục dẹt ngang của mắt cũng chứng minh quy luật này cũng đúng với chúng ta. Quá trình tiến hóa này cũng khiến cho quá trình xử lý thông tin hình ảnh trong não đi theo hướng quét ngang.
Chiều dài các bộ phận trên cơ thể trong bức Vitruvian Man cũng tuân theo tỉ lệ vàng
"Khi động vật phát triển các cơ quan quan sát, chúng giảm thiểu nguy hiểm từ phía trước và bên hông", Bejan cho biết. "Điều này làm cho các loài động vật trên trái đất tiến hóa theo hướng an toàn và hiệu quả hơn. Dòng phát triển của các loài động vật đi theo hướng có lợi để tồn tại, ít nguy hiểm và ít mối đe dọa".

Đối với Bejan, tầm nhìn và nhận thức tiến hóa cùng nhau và đều là một phần của sự vận động. Sự tăng hiệu quả truyền thông tin từ thế giới bên ngoài qua mắt tới bộ não tương ứng với sự chuyển thông tin qua các kiến trúc phân nhánh của dây thần kinh và não.

Adrian Bejan cho rằng lý thuyết "Quy luật hình thành" của ông có thể giải thích sự phổ biến của tỷ lệ vàng trong cuộc sống là do quá trình tiến hóa theo hướng phân bố tối ưu tính mất cân đối

Trong nhiều sách và tài liệu suốt một thập kỷ qua, Bejan đã chứng minh được lý thuyết quy luật hình thành dự báo một loạt các thiết kế hệ thống lưu thông trong tự nhiên, từ sinh vật học, địa lý cho tới động học xã hội và tiến bộ công nghệ.

Ứng dụng gần đây nhất của lý thuyết trên để giải thích những bí ẩn của tỷ lệ vàng xuất hiện trong Tạp chí Quốc tế về Thiết kế, Thiên nhiên và Động sinh thái học (International Journal of Design & Nature and Ecodynamics).
Mạnh Kiên (tổng hợp)
Mây cuộn như sóng biển, rắn khổng lồ dài bằng xe buýt, bà cụ tổ của loài người là ba trong số những phát hiện khoa học nổi bật nhất trong năm 2009, theo bình chọn của trang National Geographic.
1. Cá mập có miệng cực lớn
Ảnh: National Geographic.
Ảnh: WWF Philippine.
Ngày 30/3, người dân thành phố Donsol, Philippine phát hiện một con cá mập dài khoảng 4 m trên bờ biển. Họ bắt nó và thông báo với văn phòng Quỹ Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (WWF) tại Philippines. Con vật chết ngay sau khi bị bắt. WWF thông báo đó là cá mập miệng lớn - một trong những loài cá mập hiếm nhất thế giới. Cho tới nay người ta mới chỉ tìm thấy 41 cá thể cùng loài với con vật đã chết, trong đó có 7 con ở Philippines.
Bất chấp nỗ lực của WWF, con cá mập vẫn bị xẻ thịt và biến thành món ăn.
2. Con người gắn đá quý vào răng từ hàng nghìn năm trước
Một hộp sọ
Một hộp sọ với những chiếc răng gắn đá quý trong Viện Nhân loại học và Lịch sử quốc gia Mexico. Ảnh: National Geographic.
Viện Nhân loại học và Lịch sử quốc gia Mexico khẳng định những thổ dân ở châu Mỹ đã biết cách gắn đá quý vào răng để làm đẹp từ khoảng 2.500 năm trước. Kết luận được đưa ra sau khi các chuyên gia của viện phân tích vài nghìn mẫu răng gắn đá quý mà họ thu thập được. Những chiếc răng có thể nằm bên trong hộp sọ hoặc tách rời. Họ khẳng định việc gắn đá quý vào răng không phải là dấu hiệu để thể hiện đẳng cấp xã hội mà chỉ phục vụ mục đích làm đẹp. Điều đáng kinh ngạc là các "nha sĩ" thời xưa đã đục răng bằng những dụng cụ có hình dạng giống mũi khoan để đục răng trước khi gắn đá quý. Những dụng cụ đó được làm bằng đá cứng.
Một con trăn xanh khổng lồ tại Mỹ.
Một con trăn xanh khổng lồ tại Mỹ. Đây là một trong những loài rắn nặng nhất thế giới. Ảnh: National Geographic.
Một báo cáo khoa học hồi tháng 10 cho thấy 9 loài rắn lớn đang bành trướng tại nhiều vùng trên lãnh thổ Mỹ và có thể gây nên thảm họa đối với động vật, thực vật và các hệ sinh thái của nước này.
Cục Địa chất Mỹ cho hay, tất cả 9 loài rắn lạ ở Mỹ đều thuộc nhóm động vật xâm lấn hoặc có khả năng xâm lấn. Điều này có nghĩa là chúng có thể sống sót và sinh sản ở nhiều khu vực khác nhau. Chúng đạt tới độ tuổi trưởng thành rất nhanh và đẻ nhiều con. Nhiều con đạt chiều dài tới hơn 6 m và khối lượng tới 90 kg. Số lượng của chúng tại Mỹ có thể dao động từ vài chục nghìn tới vài trăm nghìn cá thể.
Ảnh minh họa loài rắn lớn nhất trong lịch sử trái đất.
Ảnh minh họa loài rắn lớn nhất trong lịch sử trái đất của BBC.
Vào tháng 2, một nhóm sinh viên và giảng viên Đại học Toronto (Canada) tìm thấy 180 xương sườn hóa thạch của 28 con rắn tại một mỏ than đá ở Cerrejó, đông bắc Columbia. Bằng cách so sánh hình dáng và kích thước của hai bộ xương đầy đủ nhất với xương của trăn khổng lồ Nam Mỹ (Anaconda), họ cho rằng chúng nặng tới 1.135 kg và dài khoảng 12,8 m. Loài rắn này sống cách chúng ta khoảng 58 đến 60 triệu năm và được nhóm nghiên cứu đặt tên là Titanoboa cerrejonensis.
Với kích thước và khối lượng như thế, nhóm nghiên cứu cho rằng Titanoboa cerrejonensis là loài rắn lớn nhất mà con người từng biết.
5. Xác "tàu ma" nguyên vẹn sau 108 năm
Tàu
Tàu A.J. Goddard vẫn nguyên vẹn sau khi bị đắm từ 108 năm trước. Ảnh: National Geographic.
A.J. Goddard nổi tiếng vì nó là một trong số ít tàu được đóng bằng sắt trong thế kỷ 19. Tên tuổi của nó gắn liền với những chuyến đưa người tới sông Yukon, Canada để đào vàng. Trong vòng ba năm, A.J. Goddard cùng với khoảng 260 tàu hơi nước khác đã vận chuyển hàng vạn người tới sông Yukon. Vào năm 1901, con tàu đột nhiên chìm trong một cơn bão lớn. Trong suốt một thế kỷ qua, vụ tai nạn của A.J. Goddard đã thu hút sự chú ý của giới khoa học. Một nhóm chuyên gia khảo cổ Canada đã tìm thấy xác của nó dưới đáy hồ Laberge, vùng lãnh thổ Yukon, Canada. Điều khiến họ kinh ngạc là A.J. Goddard vẫn còn nguyên vẹn như thể nó vừa đắm từ mấy ngày trước.
Những thứ còn vương vãi trên tàu cho thấy tình trạng hỗn loạn trên tàu trước khi đắm. Nhiều người đã chết trong cơn bão. Một số người vứt lại giày và áo choàng để nhảy khỏi tàu.
Ảnh
Ảnh minh họa ngoại hình và dáng đi của "Ardi" của BBC.
Vào tháng 10 các nhà khảo cổ học của Đại học California, Mỹ, công bố hình ảnh hoàn chỉnh về bộ xương hóa thạch của một sinh vật thời tiền sử từng sống tại châu Phi cách đây 4,4 triệu năm. Bộ xương hóa thạch – có tên Ardipithecus ramidus nhưng gọi tắt là “Ardi”
Từ trước tới nay giới nhân chủng học luôn nghiên cứu tinh tinh (trên cả phương diện giải phẫu học và hành vi) để tìm hiểu tổ tiên loài người. Tuy nhiên sự xuất hiện của Ardi khiến mọi hiểu biết của chúng ta về lịch sử loài người bị đảo lộn hoàn toàn. Các phân tích cho thấy Ardi có cả những đặc điểm của người và động vật linh trưởng cổ đại. Tuy nhiên, nó không phải là tinh tinh hay khỉ đột. Nhóm nghiên cứu của Đại học California cho rằng Ardi có thể là tổ tiên chung của người và các động vật linh trưởng ngày nay. Như vậy có nghĩa là chúng ta không tiến hóa từ tinh tinh.
7. Chim quý hiếm xuất hiện tại Philippines
Con chim cun cút Luzon bị bán ngoài chợ tại Philippines. Ảnh: National Geographic.
Con chim cun cút Luzon bị bán ngoài chợ tại Philippines. Ảnh: National Geographic.
Chim cun cút Luzon được cho là chỉ sống ở đảo Luzon của Philippines. Trong suốt nhiều năm qua người ta chỉ nhìn thấy chúng trên những bức tranh trong viện bảo tàng mà các nhà khoa học từng vẽ từ vài thập kỷ trước. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế đã đưa chim cun cút Luzon vào Sách đỏ. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học khẳng định chúng đã tuyệt chủng.
Thế rồi vào tháng 1 vừa qua, một đoàn làm phim tài liệu của vô tình phát hiện một con cun cút Luzon còn sống được bày bán tại một chợ ở Philippines. Michael Lu, chủ tịch câu lạc bộ Chim hoang dã Philippines, cho rằng đó có thể là con chim cun cút Luzon cuối cùng còn sống. Nhưng tổ chức Birdlife International khẳng định loài chim này vẫn còn tồn tại ở những khu vực khác.
8. Loại mây kỳ lạ
Đám mây hình sóng vỗ trên bầu trời thành phố Cedar Rapids, bang Iowa, Mỹ. Ảnh: National Geographic.
Những đám mây trong ảnh trông giống như sóng vỗ bập bềnh trên trời. Chúng xuất hiện ở phía trên thành phố Cedar Rapids, bang Iowa, Mỹ. Trên thực tế người ta đã phát hiện loại mây này từ năm 1951.
Gavin Pretor-Pinney, một người say mê tìm hiểu mây tại Anh, đã đề nghị Tổ chức Khí tượng Thế giới đưa loại mây nói trên vào danh sách những loại mây mới. Ông cũng đặt cho chúng một cái tên bằng tiếng Latin: Undulatus asperatus (nghĩa là dạng mây gợn sóng, hỗn loạn và dữ dội).
Margaret LeMone, một chuyên gia về mây tại Trung tâm nghiên cứu khí quyển quốc gia Mỹ, nói rằng bà đã chụp ảnh loại mây hình sóng vỗ trong hơn 30 năm qua. LeMone cho rằng chắc chắn chúng sẽ được công nhận là loại mây mới.
Cá mắt thùng. Ảnh: Livescience.
Cá mắt thùng. Ảnh: Livescience.
Sở hữu chiếc đầu giống như khoang lái của phản lực cơ chiến đấu, loài cá mắt thùng (Macropinna microstoma) là một trong những động vật biển kỳ lạ nhất hành tinh. Chúng sống trong môi trường tối đen dưới đáy biển, nơi ánh sáng mặt trời không thể lọt tới. Thân của cá mắt thùng dài khoảng 15 cm.
Các chuyên gia của Viện nghiên cứu hải dương Monterey Bay (Mỹ) sử dụng các đoạn video do một thiết bị điều khiển từ xa ghi lại để nghiên cứu cá mắt thùng tại vùng biển California trong năm nay. Ở độ sâu 600-800 mét, loài cá này thường giữ thân mình bất động, còn mắt của chúng phát ra ánh sáng màu xanh lục. Một đặc điểm chưa từng được biết đến ở cá mắt thùng là mắt của chúng được bao quanh bởi một tấm chắn trong suốt chứa đầy dịch lỏng. Tấm chắn này bao phủ cả phần đỉnh đầu.
10. Mắt xích còn thiếu trong lịch sử tiến hóa của loài người
Ida là mắt xích giữa những động vật linh trưởng bậc cao và những nhóm động vật linh trưởng khác. Ảnh: Nati
Ida là mắt xích giữa những động vật linh trưởng bậc cao và những nhóm động vật linh trưởng khác. Ảnh: National Geographic.
Từ lâu giới khoa học rất muốn biết những động vật linh trưởng bậc cao (như khỉ, người) tách khỏi những nhóm động vật linh trưởng khác (trong đó có vượn cáo) trong quá trình tiến hóa từ lúc nào và ở đâu. Nhưng trong suốt nhiều thập kỷ họ chưa tìm ra manh mối về sự chia tách đó.
Thế rồi vào tháng 5 các nhà cổ sinh vật học quốc tế thông báo họ tìm thấy bộ xương hóa thạch của một sinh vật giống người có niên đại 47 triệu năm tại Đức. Nhóm nghiên cứu tuyên bố Ida - tên hóa thạch - chính là loài đóng vai trò "mắt xích" trong quá trình tiến hóa của động vật linh trưởng mà giới khoa học tìm kiếm từ nhiều thập kỷ qua. Ngay lập tức Ida trở thành đề tài nóng hổi trên các phương tiện truyền thông khắp thế giới.
Philip Gingerich, nhà cổ sinh vật học của Đại học Michigan, Mỹ, nói rằng Ida là cầu nối giữa những động vật linh trưởng bậc cao như khỉ, người và những động vật linh trưởng có họ xa với người như vượn cáo.
"Đây là sinh vật có quan hệ gần gũi nhất với tổ tiên trực tiếp của loài người", nhà cổ sinh vật học Jorn Hurum, trưởng nhóm nghiên cứu, tuyên bố.
Minh Long
Blog EntryDec 17, '09 6:01 PM
for everyone
(GD&TĐ) – Một hành tinh có chứa nước lớn hơn trái đất 6 lần vừa được phát hiện ở cách chúng ta chỉ 40 năm ánh sáng. Tuy nhiên, hành tinh này được coi là quá nóng để duy trì những sự sống như trái đất nhưng có thể chứa tới 75% nước.
Những chứng cứ cho thấy nó có một bầu khí quyển và các nhà thiên văn học tin rằng nó giống Trái đất của chúng ta hơn bất kỳ hành tinh nào khác bên ngoài hệ Mặt trời.
Hành tinh mới phát hiện GJ1214b (phải) khá gần ngôi sao mẹ, khiến nhiệt độ bề mặt của nó khá cao
Hành tinh được coi là một “siêu Trái đất” nằm ở giữa những hành tinh nhiều đá nhỏ như Trái đất và những hành tinh lớn có nhiều băng như sao Thiên Vương và Hải Vương. Ngôi sao mẹ của hành tinh này mờ hơn mặt trời 3.000 lần và khiến cho nhiệt độ bề mặt của hành tinh lên tới 200 độ C.
Ở một khoảng cách 1,3 triệu dặm, hành tinh nhiều hơi nước có tên gọi GJ1214b này được một loạt những kính viễn vọng đặt trên mặt đất, thuộc dự án MEearth (của Mỹ) phát hiện khi nó đang quay quanh ngôi sao GJ1214.
GJ1214b được cho là có ¾ là nước và băng, ¼ là đá. Theo đánh giá, đây là hành tinh giống Trái đất nhiều hơn bất kỳ một exoplanet (khối khí khổng lồ) nào từng phát hiện.
Các nhà khoa học tin rằng có thứ gì đó bên cạnh bề mặt của hành tinh này đã cản ánh sáng từ ngôi sao mẹ - đó có thể là lớp khí quyển xung quanh có chứa khí hydro và heli.
Phát hiện trên được đăng trên tạp chí Nature và tại đây, giáo sư Geoffrey Marcy, đến từ trường ĐH California đã mô tả “thế giới nước” trên GJ1214b: “Nó có thể là một đại dương rộng lớn với nhiệt độ bề mặt là khoảng 190 độ C do sức nóng từ ngôi sao mẹ. Đây có thể giống như một hồ tắm hơi”.
Hà Châu (Theo Dailymail)

- Hiện nay, thế giới đang tồn tại một số thuyết cho rằng, Trái Đất có ngày tận thế. Bee sẽ khởi đăng loạt bài lý giải của các nhà khoa học trả lời cho câu hỏi "liệu chúng ta có bị diệt vong?".
TIN LIÊN QUAN

Nghĩ gì về năm 2012?
Nền văn minh Maya phát triển trên phần đất Trung Mỹ, từ các bang phía nam Mexico tới phía tây Honduras. Họ là những nhà thiên văn học tài ba, làm kinh ngạc cả các nhà khoa học hiện đại với những điều họ quan sát được bằng mắt thường. Tính toán của họ về tháng âm lịch, chu kỳ của Sao Kim và các năm chính xác hơn nhiều so với người Hy Lạp cổ.
Một trong những loại lịch nổi tiếng của người Maya là Bộ lịch Long Count, được hình thành từ khoảng những năm 355 trước Công Nguyên và được chọn ngày khởi đầu là 0.0.0.0.0, tương đương với ngày 11/8/3114 trước Công Nguyên. Tới ngày 21/12/2012, trong Bộ lịch của người Maya là ngày 13.0.0.0.0. Thời gian từ 0.0.0.0.0 - 13.0.0.0.0 là khoảng 5.126 năm. Tháng 12/2012 đánh dấu sự kết thúc của chu kỳ hiện tại của lịch Long Count.
a
2012 chỉ là kết thúc của lịch cổ Maya
Lịch Long Count được sử dụng hoàn toàn bởi người Maya cổ và chỉ được phát hiện gần đây bởi các nhà khảo cổ học. Tuy vậy, vòng lịch này vẫn đang được sử dụng bởi một số bộ lạc Maya ở các vùng cao nguyên Guatemalan. Đối với người Maya hiện đại, năm 2012 gần như không có ý nghĩa quan trọng gì và các tư liệu lưu trữ của người Maya cổ về vấn đề này cũng hiếm hoi, thậm chí còn trái ngược với những gì chúng ta vẫn nghĩ.
Jose Huchm, nhà nghiên cứu nổi tiếng thế giới về người Maya cho rằng: "Nếu tôi đến một cộng đồng nói tiếng Maya nào đó và hỏi người ta về những gì sắp xảy ra vào năm 2012, họ sẽ chẳng có ý kiến gì. Thế giới sắp đến ngày tận thế ư? Họ chẳng tin đâu".

2012 chỉ là kết thúc của lịch cổ Maya
Hiện nhiều học giả vẫn đang tiếp tục tranh luận về đại họa xảy ra vào năm 2012. Rất đông ý kiến cho rằng, năm 2012 chỉ đơn thuần là năm kết thúc của bộ lịch cổ nổi tiếng này.
Trao đổi với KH&ĐS, KS Nguyễn Anh Tuấn, chủ nhiệm CLB Thiên văn Nghiệp dư TP.HCM cho hay: Nhiều người cho rằng, ngày 21/12/2012 sẽ là ngày tận thế. Tuy nhiên, không có chứng cứ khoa học nào cho thấy đó là ngày chúng ta sẽ bị diệt vong. Thực tế, ngày đó chỉ đơn thuần là ngày cuối cùng của bộ lịch cổ của người Maya.   
1. Hiện tượng 2012 dựa trên thuyết Mạt Thế cho rằng, những biến động lớn về địa chất, như dạng đại hồng thủy sẽ diễn ra vào ngày 21/12/2012, thời điểm được cho là kết thúc của lịch Long Count của người Maya dài khoảng 5.126 năm. Thuyết này cho rằng vào thời điểm đó, chúng ta sẽ bị diệt vong.
2. NASA so sánh sự lo ngại về thời điểm ngày tận thế 2012 cũng tương tự như hiện tượng Y2K năm 2000. Các nhà khoa học của NASA cho rằng, cần có những phân tích khoa học chính đáng để đẩy lùi sự sợ hãi về thảm họa vô cớ này.
Hội Hoa Na
Kỳ 2: Có hay không các hành tinh trong hệ mặt trời xếp thành một hàng?
Blog EntryNov 7, '09 9:23 PM
for everyone

Mô tả ảnh.

Cá voi xanh là loài thú lớn nhất thế giới, nên "cái gì" cũng lớn.
- Hàng năm cứ vào tháng 9 âm lịch, du khách khi đến Thái Lan lại được chứng kiến những cảnh tượng có một không hai trong Lễ hội ăn chay của người dân nước này.

Trong lễ hội, du khách có thể thấy những người sùng đạo sử dụng những thanh sắt, dao hay kiếm để đâm xuyên qua má của họ, hoặc sử dụng những hàng tá những cây sắt nhỏ để găm tứ tung lên mặt.

Lễ hội ăn chay là lễ hội độc nhất của người Thái có nguồn gốc từ một đảo phía nam của tỉnh Phuket khoảng 180 năm trước và dần dần lan rộng ra hầu hết tất cả các tỉnh thành trên đất Thái.

Ở Bangkok, Lễ hội ăn chay được tổ chức chủ yếu tại Yaowarat hay Chinatown - khu phố đặc trưng của người Hoa. Lễ hội bắt đầu vào ngày 1/9 âm lịch và trong suốt 10 ngày, ngoài việc ăn chay, họ còn sắm sửa rất nhiều lễ vật để dâng cúng các vị thần và tụng kinh cầu an cho gia đình cũng như cầu siêu cho tổ tiên.
Màn trình diễn độc đáo nhất nhưng cũng không kém phần rùng rợn trong lễ hội này là cảnh những người sùng đạo tự đâm vào chính cơ thể mình bằng hàng trăm cây đinh, kiếm hoặc những vật nhọn khác.

Dưới đây là một số hình ảnh của Lễ hội ăn chay năm nay: 
1 khẩu súng còn có thể được những kẻ mộ đạo đâm xuyên qua mặt...
1 khẩu súng còn có thể được những kẻ mộ đạo đâm xuyên qua mặt...
...huống chi là dao kiếm và những cây đinh sắt
...huống chi là dao kiếm và những cây đinh sắt
 
 
 
 
Thịnh Nguyễn (Theo The Sun)
Blog EntryOct 23, '09 7:28 PM
for everyone

- Có những người khi nhỏ khá xinh xắn nhưng khi lớn lên thì không còn giữ được những nét ưa nhìn của tuổi ấu thơ. Ngược lại, một số người khác lại trở nên đẹp hơn so với thời niên thiếu.

Trẻ thì xinh, lớn lên thì xấu

Thu Thủy (20 tuổi, sinh viên trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội ) người luôn được bạn bè đặt cho cái biệt danh “vịt con xấu xí” vì cô vừa gầy vừa nhỏ lại không được ưa nhìn cho lắm. Khuôn mặt hốc hác cộng với đôi mắt một mí khiến nhiều người quên cô đang ở lứa tuổi dậy thì. Đôi gò má cao và cái miệng hơi rộng càng làm cho Thuỷ mất đi nét duyên của người thiếu nữ. Nhưng họ không thể nghĩ rằng hồi còn nhỏ, Thủy vốn là một bé gái khá xinh xắn. 

Lúc vẫn được mẹ ẵm trên tay, Thủy nhìn bụ bẫm và rất kháu khỉnh. Đôi mắt đen lấp láy và cái miệng lúc nào cũng hớn hở cười. Thuỷ bây giờ nhìn giống bố hơn, đặc biệt là đôi mắt một mí thì không lẫn đi đâu được.
Bố Thủy cao nhưng gầy và khuôn mặt cũng chứa những nét hốc hác. Lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn khi mà gia đình Thuỷ phải nuôi 3 đứa con nhỏ, Thuỷ cùng 2 đứa em sinh đôi chỉ kém Thủy 2 tuổi. Thủy sớm xa rời vòng tay mẹ để nhường cho 2 em.

Ngược lại với Thủy, Phương (24 tuổi, hiện là nhân viên công ty Minh Loan, Hải Phòng) càng lớn càng trở nên xinh đẹp hơn so với khi còn nhỏ. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi mắt to tròn dễ thương và hai má lúm đồng tiền.
Mẹ Phương, cô Hà Thu kể, hồi còn nhỏ Phương có nước da ngăm đen, cái mặt hơi dài, cái mũi thì tẹt nhìn chẳng đáng yêu chút nào. Thế mà, “con bé càng lớn càng trở nên ưa nhìn hơn”, với những nét thu hút của một người thiếu nữ. 

Xinh hay xấu không vượt qua yếu tố di truyền

PGS.TS. Đào Huy Khuê, phòng Xã hội, Viện phát triển bền vững vùng Tây Nguyên, trước kia từng công tác tại khoa Sinh học trường ĐH Khoa học tự nhiên Hà Nội đã có những công trình nghiên cứu về giải phẫu người.

Ông Khuê cho biết, con người trải qua nhiều thời kỳ phát triển và mỗi thời kỳ lại có những sự thay đổi về hình thể mang tính quy luật. Thời kỳ trong tử cung và thời kỳ sơ sinh, trẻ có sự thay đổi rõ rệt nhất. Không chỉ thay đổi về hình thể, vóc dáng mà ngay cả khuôn mặt cũng có sự biến đổi.
Vì thế, có trường hợp, sau nhiều năm gặp lại người ta có thể không nhận ra nhau và có thể ngạc nhiên trước sự thay đổi của một người nào đó. Người ta nhìn vào khuôn mặt để nhận biết nhau và cũng nhìn vào khuôn mặt để đánh giá xem người này xinh hay xấu.

Trên cơ sở giãi phẫu sinh lý người, PGS.TS. Đào Huy Khuê chứng minh: Khuôn mặt của con người cũng có sự thay đổi nhất định theo từng thời kỳ phát triển. Sự thay đổi đó phụ thuộc vào sự biến đổi của xương đầu.
Xương đầu gồm xương mặt và xương sọ nên khi xương đầu biến đổi sẽ kéo theo sự biến đổi của xương mặt. Vì thế, có những trẻ khi nhỏ có khuôn mặt dài lúc lớn lên thì lại tròn và ngược lại, có những trẻ khi nhỏ nhìn giống bố, lớn lên lại nhìn giống mẹ.
a
Diễn viên Jake Lloyd của bộ phim “Chiến tranh giữa các gì sao I” lúc nhỏ và bây giờ.
Sự thay đổi này cũng chịu tác động bởi nhiều yếu tố như: dinh dưỡng, di truyền, chế độ tập luyện, điều kiện sống…

Yếu tố di truyền từ bố mẹ sang con cũng quyết định sự phát triển gương mặt của trẻ. Trẻ không thể phát triển vượt qua sự phát triển trước kia của bố mẹ chúng. Vì thế hai bố mẹ đẹp không thể sinh ra một đứa con quá xấu hoặc ngược lại ngoại trừ đột biến. 

Tuổi tác cùng các thời kỳ phát triển của con người cũng liên quan sự phát triển của khuôn mặt. Tuổi trẻ, da mặt căng, nhẵn, hồng hào hơn. Lớn lên, ngoài sự thay đổi về màu da, gương mặt cũng xuất hiện nhiều nếp nhăn, da cũng không còn căng bóng nữa. 

Sự đánh giá khuôn mặt xấu hay đẹp cũng phụ thuộc vào quan niệm của mỗi người và theo tiêu chí chung của nhân loại. Với người này cô A xinh nhưng với người kia cô A lại xấu. Cũng có thể, người lớn thường cưng nựng trẻ con nên cảm thấy bé dễ thương. Theo ông Khuê, khuôn mặt xinh là sự kết hợp hài hòa giữa những những yếu tố trên khuôn mặt như mắt, mũi, miệng, lông mi, lông mày… và nhiều yếu tố khác nữa. 

Tất nhiên, sự thay đổi trên khuôn mặt con người có thể theo chiều hướng đẹp lên hay xấu đi nhưng không thể vượt quá xa yếu tố di truyền, ông Khuê khẳng định.
  • Nguyễn Đóa
Blog EntryOct 4, '09 10:22 AM
for everyone
Ngày 29/9 vừa qua, những dấu vết hoá thạch của loài cá mập khổng lồ dài tới 16m đã được phát hiện tại Panama.
 
 
Đây là loài cá mập cỡ lớn, giống như phiên bản của loài cá mập trắng hiện đại, có tên là Megalodon (Charcharocles megalodon).

Loài cá mập này, được coi như là loài động vật ăn thịt đầu tiên trong đại dương ở vào thời điểm khoảng 1,5 triệu năm trước đây, với chiếc răng dài khoảng 15 cm.
 
Răng của loài cá mập Megalodon.  
Những nhà cổ sinh học đã cho rằng chỉ có một giả định đối với những loài thú hung dữ này từng tồn tại ở khu vực Nam Carolina ngày nay.

Ở bờ biển Caribe ở Panama, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy những chiếc răng đa số có kích cỡ là 1,2 cm và 7,5cm.

Một nhóm nghiên cứu ở Đại học Florida ở Gainesville đã so sánh mẫu hoá thạch với loài Charcharocles Megalodon khác và xác định, mẩu răng hoá thạch được tìm thấy là của một con cá mập chưa trưởng thành.

Ở cả Panama và Nam Carolina, loài Megalodon đều sinh sống ở các khu vực nước nông và ấm, thuận lợi cho việc sinh sản.

Mặc dù vậy, giả thiết về khu vực Nam Carolina vẫn còn gây tranh cãi. Có sự phân loại cả về răng của loài cá mập Megalodon lớn và nhỏ cũng như là hộp sọ của cá voi vốn là mồi của cá mập trưởng thành.

Nhưng Pimiento (thành viên nhóm nghiên cứu) cho rằng không chắc chắn là loài cá mập chưa trưởng thành này có thể bị ăn thịt như cá voi vì những con này có thể dài tới 6m, có kích thước tương tự như một con cá mập trắng trưởng thành.
Cá mập (Ảnh chỉ có tính minh hoạ).
"Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng một số loài cá mập chưa trưởng thành không tiêu tốn nhiều thức ăn", bà đã viết trong một email, đề cập đến vấn đề “Những loài cá mập còn tồn tại ngày nay”.

Pimiento trình bày nghiên cứu của nhóm tuần trước tại cuộc hội thảo của Hội cổ sinh học những loài động vật có xương sống tại Bristol, Vương quốc Anh.

Phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng về môi trường sống của loài cá mập, cả thời cổ đại và hiện đại.

"Những khu vực này là môi trường sống thiết yếu cho sự sống còn của loài cá mập, và không có chúng thì hệ động vật sẽ trở nên thiếu sót", Pimiento nói. "Bây giờ, tại các khu vực ven biển, con người đang ra sức đánh bắt các loài cá. Vì vậy, những nghiên cứu này là cho chúng ta biết được rằng các khu vực này đã từng là nơi sinh sống của các cá mập trong hàng triệu năm, và chúng ta cần phải gìn giữ khu vực để loài cá mập có thể sinh sôi nảy nở thành công và sống sót".
 (Ảnh minh hoạ).

"Megalodon rất có thể bị tuyệt chủng bởi vì nó quá to lớn, rất khó khăn trong việc tìm đủ nguồn thức ăn để tồn tại," Albert Sanders ở Bảo tàng Charleston ở Nam Carolina nói.

Ông cũng nói thêm rằng: "Con người cần phải thay đổi. Chúng ta không biết rằng chúng ta đang làm nhiều hoạt động gây thiệt hại đến tính đa dạng loài trong đại dương ngày nay". 
 
Theo VTC
Blog EntryOct 1, '09 9:11 PM
for everyone
Ðứng trên cây, một con Gà Trống
Có trách nhiệm trông ngóng, canh chừng
Ðánh hơi, Chồn đến chào mừng,
"Chúng ta cương quyết phải ngừng hại nhau.
Mối thù xưa hôm nay chấm dứt,
Anh em ta hợp lực đắp xây,
Hạnh phúc miên viễn từ đây,
Thái bình chung hưởng, vui vầy đệ huynh
Hãy bước xuống, đôi ta đàm đạo,
Bạn và tôi cố tạo tình thương.
Mặt mừng, tay bắt, hỗ tương,
Xoá bỏ oán cũ, đừng vương nghi ngờ"

Gà mừng rỡ, gáy to, vỗ cánh,
"Tin vui này quý sánh hơn vàng,
Bỏ đi dĩ vãng phũ phàng,
Ðồng tâm hiệp lực, hưởng màn vinh quang.
Kìa tôi thấy có hai bạn mới,
Cặp chó săn chạy tới nhập đoàn.
Trẻ trung quắc thước lẹ làng,
Chỉ trong giây phút đôi đàng gặp nhau."


Chồn nghe qua, giựt mình sợ hãi
"Giã từ anh, tôi phải gấp đi,
Thu xếp vài việc li ti
Hẹn anh hôm khác, cần chi sẽ bàn"


Chồn cút mất, Gà cười khoái chí,
Sung sướng vừa đấu trí, giải khuây.
"Mi tưởng gạt được ta đây,
Không ngờ bị gạt, vác thây chạy dài.
Cặp chó săn do ta tưởng tượng,
Ðánh lừa mi, lạc hướng cười chơi,
Việc đời chìm nổi,chơi vơi,
Gạt người, người gạt, trò đời trả vay!"

________\\ _________


Ngụ Ngôn La Fontaine


Jean de La Fontaine (1621-1695) nối nghiệp cha làm viên chức Kiểm lâm (từ 1648 đến 1672). Chính trong thời gian này ông đã có dịp quan sát các động vật và thực vật làm chất liệu cho các bài ngụ ngôn của ông.

Năm 1668, ông ấn hành tập ngụ ngôn đầu tiên gồm 6 quyển, năm 1879 tập ngụ ngôn thứ nhì gồm 5 quyển và năm 1694 quyển ngụ ngôn cuối cùng. Mười hai quyển nói trên gồm 243 bài ngụ ngôn, tất cả đều viết theo thể văn vần.

Ngoài các bài ngụ ngôn, La Fonataine còn làm thơ, viết truyện cổ tích và viết một số tác phẩm khác bằng văn xuôi.

Dĩ nhiên tiếng Pháp hồi thế kỷ 17 có nhiều khác biệt với ngày nay, cả về phương diện từ ngữ và văn phạm.

Những bài ngụ ngôn được chọn để dịch thành thơ trong tập này là những bài rất phổ thông hoặc có nhiều ý nghĩa, nhiều bài đã được phổ biến hắp thế giới và trước đây, ở Việt Nam, các ông Trương Minh Ký và Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã dịch một số bài.

Nhiều câu của La Fontaine đã trở thành ngụ ngôn và trong câu chuyện hàng này người ta cũng thường nhắc lại hoặc ám chỉ đến những ngụ ngôn này, cũng như các cụ ta xưa thường lẩy Kiều hoặc tập Kiều. Ai cũng chuyện rùa và thỏ chạy đua, gà đẻ trứng vàng, cô bán sữa Perette, người cha già bảo các con bẻ bó đũa, cuộc đối thoại giữa người câu cá và con cá nhỏ, chuột nhắt cứu sư tử, con ếch muốn to bằng con bò... Nhiều người không đọc La Fontaine cũng có sẵn những câu của ông ở cửa miệng để áp dụng vào những trường hợp thực tế của đời sống: lý lẽ của kẻ mạnh, hội đồng chuột, nhu thành công hơn cương, đừng bán da gấu trước khi bắn được gấu, tán phó mát...

Không những thơ La Fontaine hay vì những nhận xét tinh tế và lời văn điêu luyện, mà còn vì những bài học chứa đựng trong các ngụ ngôn. Đứng về phương diện nội dung, các ngụ ngôn này có thể chia làm ba loại chính:

- Một số bài là những nhận xét về thực trạng của đời sống xã hội, để dạy cho con người hoặc khuyên cách xử thế: bài Chó Sói và Cừu con nhắc nhở sự thực muôn đời "mạnh được yếu thua", bài Con Cò khuyên ta không nên khó tính và đòi hỏi quá nhiều, bài con Rùa và Con Thỏ khuyên ta đừng nên ỷ tài và khinh địch, bài Con Cáo và Con Cò là một minh họa về quy luật "ăn miếng trả miếng", bài Nồi Đất và Nồi Gang nêu cái hại "đánh đu với tinh", nhiều bài khuyên ta nên giúp đỡ mọi người và đừng ích kỷ, đừng vô ơn bạc nghĩa, chớ nghe lời phỉnh nịnh, đừng sính tụng, nên tự mình có lập trường và đừng nghe lời thị phi...

- Một số bài đề cao những lý tưởng hay đẹp: yêu thích sự tự do (bài Chó Sói và Chó Nhà), quý trọng sự thanh thản của tâm hồn hơn của cải (bài người thợ giày và nhà tài phiệt), miếng ăn thanh đạm nhưng yên tâm hơn là cao lương mỹ vị nhưng phập phồng lo sợ (bài Chuột tỉnh và Chuột đồng)...

- Nhiều bài là những nhận xét xác đáng về tâm lý hoặc tư cách của con người: "tiểu nhân đòng nhi bất hòa" (câu của Luận ngữ) như bài những Đứa Trộm và con Lừa, người ta dù khổ sở đến đâu cũng không muốn chết (bài Thần Chết và người Tiều phu), ai cũng tự cho mình là hoàn hảo và chê bai kẻ khác (bài Hai Túi)...

Tóm lại, tập Ngụ Ngôn La Fontaine là một tuyển tập đầy đủ phản ánh xã hội loài người, đồng thời là một cuốn sách dạy luân lý, đạo đức. Người ở khắp nơi và ở mọi thời đại đọc đều thấy rất thích thú vì câu chuyện vui vui, lời văn linh động, dí dỏm, thấy học hỏi được rất nhiều điều hay, và nhất là thấy có nhiều cơ hội để tự xét mình, tự vấn lương tâm để hướng đến Chân, Thiện, Mỹ.

ĐỖ KHẮC SIÊM
Charlotte, North Carolina,
ngày 2-6 1992.


Blog EntrySep 28, '09 9:40 PM
for everyone
Người Việt Nam có lẽ chưa quen thuộc nhiều với việc lập di chúc trước khi chết. Nhưng với người Mỹ, đây là điều khá phổ thông mà dạo sau này là di chúc sống (Living Trust).

Một bản di chúc rất quan trọng khi người ta có nhiều tài sản, từ bất động sản đến động sản. Nếu không có di chúc, sự phân chia tài sản cho các người còn sống trong gia đình nhiều khi dẫn tới tranh tụng.

 Người ta thấy trên báo chí nhiều vụ kiện về phân chia gia tài khá nổi tiếng khi người chết là một nhân vật nhiều người biết đến và có tài sản lớn.

Sự khác biệt của Di Chúc Sống (Living Trust) và Di Chúc (Will): Hai loại này là một loại di chúc viết để cho tài sản quý vị để lại cho người thừa kế sau khi quý vị qua đời. Tuy nhiên, sự khác biệt là nếu quý vị viết di chúc theo kiểu Will thì người thừa kế phải ra tòa để được hưởng. Thời hạn ra tòa và án phí cũng như chi phí luật sư mất nhiều thời gian và tiền bạc. Chi phí có thể lên tới 40% của tài sản để lại và thời gian ra tòa có thể mất ít nhất là một năm cho đến hai năm. Nếu quý vị viết di chúc theo kiểu Living Trust, thì quý vị không cần ra tòa và không cần luật sư. Trong di chúc Living Trust, quý vị chỉ định các phần tài sản ủy thác dành cho các người thừa hưởng một cách hợp lệ, không cần sự cần thiết của tòa án và di chúc này cho người thừa hưởng được lấy tài sản ngay.

Living Trust gồm những gì?

Chúng ta hãy coi Living Trust như một sân khấu có bốn diễn viên.

- Trustor (cha mẹ).

- Trustee (cũng có thể cha mẹ hoặc người tin cậy).

- Successor Trustee (con cái hoặc người điều hành phân chia).

- Beneficiaries (con cái hoặc người thừa hưởng).

Khi chúng ta có 4 diễn viên và trách nhiệm của mỗi người. Chúng ta có thêm 1 trang về tài sản. Hãy gọi đây là Schedule A, chúng ta viết những tiền ngân hàng, bất động sản, stock, v.v... vào đây.

Chúng ta cần thêm 1 trang để có bằng chứng chúng ta có làm Living Trust. Trang này gọi là Abstract of Trust. Thí dụ một ngân hàng cần biết chúng ta có Living Trust hay không, chúng ta chỉ gởi 1 trang có 4 diễn viên và 1 trang có người thị thực chữ ký làm chứng. Trang này được thành lập với mục đích để chúng ta không gởi mấy chục trang có chi tiết về tài sản trong gia đình cho người khác biết.

Trang này cũng có thể gởi cho các hội thiện nguyện báo tin là nếu quý vị qua đời, họ sẽ cũng được hưởng. Tuy nhiên, họ sẽ không biết quý vị sẽ cho gì, vì họ không nhận được Schedule A trong quyển di chúc cá nhân của quý vị.

Tại sao nên có Living Trust & Pour Over Will?

Sau khi quý vị đã biết sự khác biệt giữa Living Trust & Will thì chúng ta không thể nào làm ngơ để cho gia đình chúng ta gây vào tình trạng khó khăn sau khi chúng ta qua đời. Chúng ta thường thay đổi Living Trust mỗi năm hoặc mỗi kỳ vì tài sản của chúng ta thay đổi theo thời gian. Việc phải có Pour Over Will là để tài sản chúng ta có thể đổ vào Living Trust khi chúng ta chưa kịp cộng tài sản vào. Thí dụ, sau khi đã làm xong Living Trust hồi tháng qua, và hôm nay chúng ta đi mua 1 chiếc nhẫn trị giá $75,000. Nếu chẳng may quý vị qua đời, thì chiếc nhẫn đó sẽ tự động vào tài sản Living Trust. Nếu không có Pour Over Will, thì chiếc nhẫn đó sẽ phải ra tòa (Probate Court) tranh cãi và mất chi phí và thì giờ. Xin nhớ Pour Over Will chỉ cho những vật trị giá $100,000 trở xuống.

Quyền quyết định trong tình trạng khẩn cấp của Living Trust

Nếu chẳng may quý vị bị hôn mê trong nhà thương (thì người quý vị chỉ định sự quyết định - trustee, sẽ rất quan trọng.) Người này sẽ lo việc trả tiền nhà thương, tiền nhà, tiền điện, v.v... trong lúc quý vị bị hôn mê. Tiếng Anh gọi là Power of Attorney - Financial.

Nếu chẳng may quý vị bị hôn mê sau nhiều năm và người quý vị chỉ định (trustee) thấy tài chánh eo hẹp và biết là quý vị chọn cái chết ngay thay vì phải chết dần mòn trong nhà thương. Người này sẽ lo việc cho phép bác sĩ thực hiện ý muốn của quý vị. Tiếng Anh gọi là Power of Attorney - Medical /Advanced Healthcare Directed. Nói chung, Living Trust giúp gia đình quý vị không bị phân vân và bị phá sản khi quý vị trong tình thế không thể quyết định.

Có những câu hỏi thường đặt ra như có nên cho con em bất động sản khi còn sống không? Câu trả lời là không. Thí dụ, căn nhà quý vị mua năm 1976 là $100,000. Khi quý vị cho vào năm 2004 trị giá lại là $500,000. Con em quý vị phải trả thuế rất nặng 35% của $400,000, trừ khi con em hoãn thuế dùng luật 1031 Exchange để hoãn thuế. Thêm 1 câu hỏi thường đặt ra là nếu di chúc Living Trust khi cho con em quý vị thì người vợ/chồng của con em quý vị có được hưởng không? Câu trả lời cũng là Không, vì Living Trust là một di chúc cho cá nhân và riêng biệt.

Sưu tầm
Blog EntrySep 27, '09 1:51 PM
for everyone
Các nhà khoa học Mỹ vừa phát hiện một loài cá mập bí ẩn ở phía đông Thái Bình Dương. Trong loài này, bộ phận sinh dục của cá đực nằm trên trán.
Douglas Long- một chuyên gia hải dương của Bảo tàng Nghệ thuật, Lịch sử và Khoa học tự nhiên Oakland tại bang California, Mỹ - cho biết ông và các đồng nghiệp đã chụp được ảnh một con cá mập lạ ở độ sâu vài km gần bờ biển California. Nó có chiều dài khoảng 0,9 m. Do loài cá này không thích ánh sáng và rất khó phát hiện nên các nhà khoa học gọi chúng là "cá mập ma".
Kể từ thập niên 60 của thế kỷ trước, người ta đã đồn đại về sự tồn tại của "cá mập ma". Từ đó tới nay giới khoa học đã sử dụng radar để tìm kiếm chúng nhưng không thấy.
 
Mãi tới gần đây một nhóm chuyên gia của Bảo tàng Nghệ thuật, Lịch sử và Khoa học tự nhiên Oakland mới phát hiện ra nơi sinh sống của chúng sau khi tìm kiếm trong những hóa thạch cá ở phía đông Thái Bình Dương. Kích thước, hình dạng và tỷ lệ của các bộ phận trên cơ thể "cá mập ma" hoàn toàn khác với những loài cá mập đang tồn tại. Vì thế nhóm nghiên cứu kết luận rằng chúng là loài chưa từng được biết tới.
 
Con cá mập ma còn sống (trên) và hóa thạch của loài này trong Bảo tàng
Nghệ thuật, Lịch sử và Khoa học tự nhiên Oakland. (Ảnh: National Geographic)
 
Trong bài báo đăng trên số tháng 9 của tạp chí Zootaxa, nhóm của Long cho rằng số lượng "cá mập ma" tăng nhanh trong vài năm gần đây. Chúng phân bố chủ yếu gần bờ biển California và bán đảo Baja California của Mexico.
 
"Cá mập ma" có một số đặc điểm mà chúng ta chưa từng thấy ở bất kỳ động vật nào trên trái đất. Chẳng hạn, cơ quan sinh dục của con đực nằm ở trên trán và có thể co duỗi như lò xo. Bộ phận ấy - có hình dạng giống dùi cui có một đầu nhọn - có thể được sử dụng để kích thích hoặc kéo cá mập cái. Tất nhiên, đó mới chỉ là phán đoán của các nhà khoa học.
Long nói rằng "cá mập ma" thuộc nhóm những loài động vật xuất hiện trên trái đất sớm nhất. Có lẽ chúng bắt đầu tách ra khỏi các loài cá mập khác trong quá trình tiến hóa từ khoảng 400 triệu năm trước. "Cá mập ma" sống sót tới ngày nay do chúng thích nghi được với môi trường khắc nghiệt dưới đáy đại dương.
"Sự tồn tại của cá mập ma cho chúng ta thấy đại dương rất phức tạp. Rất có thể đại dương còn có rất nhiều loài mà con người chưa biết", Long phát biểu.
 
Theo National Geographic/ VnExpress
Blog EntrySep 26, '09 12:46 PM
for everyone

(24h) - Chú chuột này có tên gọi Capybara là chú chuột lang nước vùng Nam Mỹ.

Trông thì siêu bự nhưng nó rất lành, hợp làm thú nuôi của con người.

Capybara là loài gặm nhấm có kích thước lớn nhất hiện nay. Sở dĩ người ta gọi chúng là chuột lang nước vì chúng giống chuột lang và sống cả ở trên cạn lẫn dưới nước. Chuột lang nước có thể to bằng 1 con cừu, nặng 50kg, con số kỷ lục được ghi nhận là có con nặng đến 105.4 kg.

Chuột nặng đến 104,5 kg, Phi thường - kỳ quặc, chuột, khổng lồ, Capybara
Chú chuột siêu bự
Chân của các chúng có màng, thân mình không có đuôi, thông thường capybara có 20 cái răng. Chân sau dài hơn chân trước một chút. Tai mọc ở trên đầu. Con cái thường nặng hơn con đực.

Đó là loài thú lưỡng cư, sống ở vùng Nam Mỹ. Bạn có thể bắt gặp chúng tại nơi nào có nước: hồ, sông, đầm lầy, ao, vùng Xavan ngập nước, hay tại những con sông dài trong rừng nhiệt đới.

Chuột nặng đến 104,5 kg, Phi thường - kỳ quặc, chuột, khổng lồ, Capybara
Chuột nặng đến 104,5 kg, Phi thường - kỳ quặc, chuột, khổng lồ, Capybara
Trông như một chú cừu non
Capybara rất dịu dàng, hiền lành, chúng thoải mái để con người tiếp xúc và cho ăn. Vì thế con người đã nuôi chúng như 1 chú chuột khổng lồ trong gia đình.
Chuột nặng đến 104,5 kg, Phi thường - kỳ quặc, chuột, khổng lồ, Capybara
Chuột nặng đến 104,5 kg, Phi thường - kỳ quặc, chuột, khổng lồ, Capybara
Chuột nặng đến 104,5 kg, Phi thường - kỳ quặc, chuột, khổng lồ, Capybara
Chú chuột khổng lồ nhưng thân thiện với con người
Blog EntrySep 6, '09 5:18 PM
for everyone
 - Tháng 9, năm 1969, mạng Internet lần đầu tiên ra đời dưới sự tham gia của Viện nghiên cứu Standford, ĐH Santa Barbara và ĐH Utah.
Web ra đời sau khi kỹ sư Tim Berners-Lee đưa ra tiêu chuẩn World Wide Web đầu tiên và đến bây giờ, Internet đã thâm nhập vào từng nhà.

Doanh Anh (National Goegraphic)
Nhiều nhà khoa học chuyên nghiên cứu về môi trường và kiến trúc trên thế giới đang tập trung khảo sát một mô hình thôn trang kỳ bí theo bố cục bát quái ở Trung Quốc.

Thôn này có tên là thôn Gia Cát hay Bát Quái, tọa lạc tại thị trấn Lan Khê, tỉnh Triết Giang, được mệnh danh là "Trung Quốc đệ nhất thôn". Đây cũng chính là trung tâm sinh sống của hậu duệ Khổng Minh Gia Cát Lượng nổi tiếng thời Tam Quốc.

Dựa theo Bát quái trận đồ lập nên thôn

Vào cuối đời Tống, đầu nhà Nguyên (khoảng năm 1300), hậu duệ đời thứ 27 của Gia Cát Lượng là Gia Cát Đại Sư bắt đầu lập thôn Bát Quái tại Lan Khê, Triết Giang.

Theo sử chép, Gia Cát Lượng từng lập ra một trận pháp thần kỳ gọi là Bát trận đồ, biến ảo khôn lường, uy lực vô cùng, từng vây khốn cả 10 vạn tinh binh của đại tướng Đông Ngô Lục Tốn.
Thôn nhìn từ trên cao
Thôn nhìn từ trên cao
Gia Cát Đại Sư đã vận dụng học thuyết Kham dư (phong thủy) vào Bát quái trận đồ của ông tổ mình, thiết lập thôn trang án theo Cửu cung bát quái.

Thôn lấy cái hồ lớn (chung trì, nửa nước nửa đất) hình thái cực làm trung tâm, 8 con đường từ hồ toả ra thành "nội bát quái".

Phía ngoài thôn lại đắp 8 tòa núi nhỏ hình thành "ngoại bát quái" bao bọc. Các sảnh, đường, nhà ở phân bố dọc theo 8 đường. Gia Cát Đại Sư trước khi qua đời có để di huấn là không được thay đổi nguyên dạng.

Trải qua hơn 800 năm dâu bể, lượng người trong thôn tăng lên nhiều, nhưng tổng thể cửu cung bát quái không hề thay đổi.
Hồ âm dương trong thôn
Hồ thái cực ở trung tâm thôn
Trong thôn có đền thờ Thừa tướng Gia Cát Lượng, hoa viên, 3 nhà bia, 18 sảnh đường, 18 giếng, 18 ao, hơn 200 phòng ốc đều là kiến trúc cổ đời Minh, Thanh rất độc đáo.

Con cháu Gia Cát đời đời đều theo lời giáo huấn của tổ phụ "không làm lương tướng, tất làm lương y" nên nhiều đời theo nghề thuốc.

Trong thôn có cả Nhà triển lãm trung y dược, vườn thảo dược... Nơi đây, riêng đời Minh, Thanh đã có 5 tiến sĩ, 11 cử nhân, hàng trăm tú tài. Các chuyên gia, học giả Trung Quốc đang đề nghị đổi Lan Khê thành TP Võ Hầu.

"Đêm không cần đóng cửa, ngoài không nhặt của rơi"

Theo nhiều nhà nghiên cứu, kiến trúc bát quái này có công năng phòng vệ và cải tạo môi trường rất cao. Thôn Gia Cát đặc biệt mát mẻ, sạch sẽ, thông thoáng.
Kiến trúc trong thôn
Kiến trúc trong thôn
Nhà kiến trúc Từ Quốc Bình cho rằng, kiểu kiến trúc của thôn này hoàn toàn khác với phong cách thôn trang truyền thống Trung Quốc, không lấy trung tuyến làm chủ mà bức xạ ra 8 hướng.

Các nhà trong thôn mặt đối nhau, đuôi liền nhau, đường nối nhau, rất thoáng mà kỳ thực kín đáo. Địa hình xung quanh nhìn giống như cái nồi, bốn phía cao, giữa thấp. Người ngoài vào thôn, nếu không có người quen dẫn đường thì lẩn quẩn không biết lối ra.

Nhà thư pháp Gia Cát Cao Phong, cháu đời thứ 42 của Gia Cát Lượng cho biết, trong thôn "đêm không cần đóng cửa, ngoài không nhặt của rơi".

Năm 1925, chiến tranh ác liệt, quân đội của Quốc dân đảng là Tiêu Kính Quang đánh nhau với quân phiệt Tôn Truyền Phương 3 ngày dữ dội sát bên thôn Bát Quái nhưng không có viên đạn nào lọt vào thôn.

Khi quân Nhật tấn công xuống phía nam, đại quân kéo qua đại lộ Long Cương nhưng không phát hiện ra thôn này. Duy có 1 lần máy bay Nhật ném bom trúng 1 phòng trong thôn.
Theo thống kê tại hội thảo "Nghiên cứu Gia Cát Lượng học" lần thứ 7 toàn Trung Quốc (10/1993), hậu duệ các chi của Gia Cát Lượng hiện có khoảng 16.000 người, riêng ở Lan Khê có hơn 6.000 người.  Trong thôn này, hơn 4.000 người đều mang họ Gia Cát và xưng là "người mình" với nhau.
 
Theo KHĐS
Blog EntrySep 3, '09 7:11 PM
for everyone
Khỉ đột cái dùng tình dục để cạnh tranh với các đối thủ trong cuộc chiến tình cảm. Ngay cả khi có bầu chúng cũng tìm cách giao phối với con đực để ngăn không cho những con cái khác mang thai.
Một con khỉ đột cái
Một con khỉ đột cái. Ảnh: pbase.com.
“Chúng tôi nhận thấy hành vi giao phối là một trong những thủ thuật mà cá thể khỉ đột cái sử dụng để cạnh tranh với nhau nhằm tranh giành sự ưu ái của con đực”, Diane Doran-Sheehy, một nhà linh trưởng học của Đại học Stony Brook (Mỹ), phát biểu.
Doran-Sheehy và các đồng nghiệp theo dõi một đàn khỉ đột ở Cộng hòa Congo trong 1.147 ngày. Đàn này có 5 con cái và một con đực trưởng thành.
“Chúng tôi muốn tìm hiểu xem liệu có phải những con khỉ đột cái mang thai tìm cách quyến rũ con đực để anh chàng khỏi gần gũi những cô nàng khác không. Hành vi cạnh tranh đó có thể giúp chúng ta giải thích tại sao con người tiến hóa thành một loài gần như tuân thủ kiểu hôn nhân một vợ một chồng”, Doran-Sheehy nói với Newscientist.
Kết quả theo dõi cho thấy 5 khỉ đột cái sinh một con trong gần 3 năm và tất cả đều giao phối với con đực sau khi thụ thai. Tuy nhiên, chúng thường cố tình gạ gẫm con đực khi nhận thấy những con cái kia có nhu cầu giao phối.
Chẳng hạn, sau khi một con cái (mà nhóm nghiên cứu gọi là MK) thụ thai, nó đã giao phối với con đực trong 3 chu kỳ động hớn liên tiếp của một con cái có tên EB. Một con cái khác (gọi là UG) giao phối trong suốt thời kỳ mang thai. Nó luôn gạ gẫm con đực khi con cái khác muốn được thụ thai.
Con khỉ đực duy nhất trong đàn tỏ ra không khôn ngoan. Phần lớn khỉ đột đực thích giao cấu với những con cái chưa có thai, song anh chàng này luôn ưu tiên những con có mức độ động hớn lớn hơn, bất kể chúng có mang thai hay không.
Điều đó giải thích tại sao những con đã mang thai vẫn giả vờ động hớn. Do cả đàn chỉ có một con đực, những con cái phải cố gắng giành được sự ưu ái của nó để nhận được sự chăm sóc sau khi sinh con.
Bằng cách trì hoãn thời gian mang thai của các đối thủ, khỉ đột cái cũng sẽ tạo ra một lợi thế về sinh sản. Tara Stoinski, một nhà linh trưởng học của vườn thú Atlanta tại Mỹ, phát hiện ra rằng những con khỉ đột cái lớn lên trong môi trường nuôi nhốt cũng “xếp lịch” những cuộc mây mưa trùng thời điểm động hớn của những con cái khác.
“Tôi đồng ý với Doran-Sheehy rằng những con khỉ đột cái cạnh tranh với nhau để giành con đực”, Stoinski phát biểu.
Tuy nhiên, tổ tiên của loài người và khỉ đột không phải là những loài linh trưởng duy nhất biết dùng sex để cạnh tranh. Khỉ bonobo, tinh tinh cái cũng coi việc giao cấu là công cụ để thu hút sự ủng hộ của con đực và bảo vệ con của chúng.
“Những con đực sẵn sàng giết chết những con bé để buộc mẹ chúng giao phối. Khi một con tinh tinh hoặc khỉ bonobo cái giao phối với tất cả con đực trong đàn, anh chàng nào cũng nghĩ mình là bố của đứa con mà con cái đẻ ra. Vì thế chúng sẽ không giết con non nữa”, Doran-Sheehy giải thích.
Minh Long
Blog EntrySep 3, '09 10:01 AM
for everyone


(Dân trí) - Một bộ sưu tập xác ướp nguyên vẹn của các nạn nhân trong đại dịch tả năm 1833 ở Guanajanto, Mexico đã được đem ra trưng bày tại thủ đô Mexico City trong một cuộc triển lãm lưu động.
 
Xem video:
 
 
36 xác ướp tự nhiên trong cuộc triển lãm mang tên "Những xác ướp tình cờ của Guanajuato" được khai quật vào năm 1865. Vào thời điểm đó, luật pháp địa phương quy định rằng thân nhân những người quá cố chôn cất trong nghĩa trang Guanajuato phải trả tiền thuê nơi yên nghỉ do nghĩa trang quá đông.
Khi thân nhân không có tiền trả chi phí thuê đất, họ sẽ không được quyền chôn cất người thân tại nghĩa trang nữa và các xác ướp phải bị khai quật. 90% ngôi mộ tại Guanajuato đã bị khai quật vì lý do đó. Tuy nhiên, trong số những ngôi mộ bị khai quật có khoảng 2% thi thể được ướp xác tự nhiên. Nguyên nhân là do điều kiện thời tiết quá khô hạn khiến một số thi thể không thể phân huỷ và tình cờ trở thành xác ướp.
Bộ sưu tập xác ướp đã giúp Guanajuato được lưu tên trên “bản đồ xác ướp” thế giới. Phát hiện cũng biến Guanajuato trở thành địa danh văn hoá quan trọng về mặt lịch sử và là một trong những nơi thu hút du khách nhất tại Mexico.
Cuộc triển lãm tại Mexico City nằm trong tour triển lãm lưu động kéo dài 3 năm. Các xác ướp sẽ được trưng bày tại nhiều nước khác nhau trong đó có Mỹ.
Những hình ảnh của cuộc triển lãm tại Mexico City:
 
 
 
 










 
Ninh Nhi
Theo Reuters
Blog EntrySep 2, '09 11:10 PM
for everyone

(NLĐO)- Các nhà khoa học vừa xuất bản các mô tả về hàng loạt loài động vật giống như sứa mà họ "chộp" được trong các chuyến lặn xuống tận đáy biển thẳm sâu ở Bắc Cực.

Dưới độ sâu 2.600m là nơi cư ngụ của loài sứa đỏ Crossota norvegica đẹp mê hồn.
Loài sứa này rất mới mẻ với các nhà khoa học và sẽ được công bố chính thức vào cuối năm 2009. Thuộc loài Narcomedusae, con sứa xanh nhỏ nhắn này chỉ sống ở độ sâu từ 1.400m – 2.000m.
Chỉ mới được nhìn thấy 6 lần, loài sứa Aulacoctena khá lớn và có màu cam nổi bật. Các nhà khoa học cho rằng loài sứa dài 15cm này sở hữu màu cam ấn tượng là nhờ ăn toàn sâu biển màu cam tươi.
Một trong những loài sứa Bắc cực lớn nhất là Chrysaora melanaster, sống ở lớp nước trên cùng ở độ sâu khoảng 20m - 40m, nơi có nhiệt độ hầu như không biến đổi.
Loài sứa môi đỏ Cydippid ctenophore  là loài sinh vật thường trú ở độ sâu 1.300m – 2.400m. Hiện thời, nó vẫn còn đang chờ được các nhà khoa học tìm hiểu cặn kẽ.
Được tìm thấy ở độ sâu 2.000m gần đáy Bắc Băng Dương, loài sứa Crossota millsae mang trên mình màu đỏ và màu tím sáng lấp lánh.
Nhỏ nhắn và xinh xắn, Benthocodon hyalinus trước đó đã được tìm thấy ở Nam Cực và có thể cả ở California (Mỹ).
Có hình dáng cực kỳ ấn tượng là loài sứa lớn Marrus orthocanna. Khi duỗi dài ra, nó có thể dài hơn 3m.
“Thiên sứ đại dương” Clione limacina là loại động vật chân cánh trong suốt, giống như một con ốc sên không vỏ. Nó sống ở lớp nước mặt với độ sâu khoảng 350m. 
Hải Ngọc (Theo BBC)
Link: http://blackyblog.multiply.com/journal/item/15
Alan Ereira – Nguyên Phong dịch
Lời dịch giả:
Tháng 10-1993 vừa qua, đài BBC tại Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ đã cho phát hình một tài liệu đặc biệt ghi nhận nếp sống của một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ. Cuốn phim nầy đã gây chấn động dư luận thế giới và hiện là một đề tài được bàn cãi rất nhiều trong giới khảo cổ, môi sinh và nhân chủng học. Lần đầu tiên được trình chiếu trong kỳ đại hội Tôn Giáo hoàn cầu tổ chức tại Chicago, nó đã gây một xúc động lớn cho toàn thể cử tọa. Chúng tôi ghi nhận lại đây bài thuyết trình “Elder Brother's Warning” của ký giả Alan Ereira để bạn đọc cùng suy gẫm.
______________________________

Từ ngàn xưa, nhân loại đã có những nền văn minh lớn. Những nền văn minh đã tạo ra các kiến trúc vĩ đại như Kim Tự Tháp, Vườn treo Babylon, Vạn Lý Trường Thành v.v... Tuy nhiên dù phát triển đến đâu chăng nữa, nền văn minh nào cũng chịu sự chi phối của luật vô thường, nay còn mai mất, cái gì cực thịnh thì cũng có lúc suy tàn. Lịch sử đã chứng minh điều đó một cách hiển nhiên vì ngày nay không mấy ai nhắc nhở gì đến những nền văn minh cổ xưa đó nữa ngoại trừ những giai thoại rời rạc, pha trộn nhiều hư cấu, khó tin.
Nói đến Kim Tự Tháp, người ta thường nghĩ đến những Kim Tự Tháp Ai Cập, chứ ít ai nhắc đến những Kim Tự Tháp Nam Mỹ, mặc dù tại đây số Kim Tự Tháp còn nhiều hơn, đặc biệt hơn và bao trùm nhiều bí mật kỳ dị hơn. Có lẽ vì phần lớn Kim Tự Tháp tại Nam Mỹ bị bao phủ bởi rừng rậm, không thuận tiện cho việc nghiên cứu, khảo sát.

Columbia là một quốc gia nằm ở phía Nam Mỹ Châu. Phần lớn lãnh thổ xứ nầy được bao phủ bởi những khu rừng rậm rạp chưa được khai phá, đặc biệt là các khu rừng quanh rặng Sierra thì gần như còn nguyên vẹn từ mấy ngàn năm nay, không mấy ai đặt chân đến. Đối với dân xứ này thì rặng Sierra vẫn được coi là một nơi chốn linh thiêng chứa đựng nhiều bí mật. Huyền thoại xứ này nói rằng đó là chỗ ở của những bậc Thần linh, có nhiệm vụ che chở cho nhân loại. Vì đỉnh núi lúc nào cũng bị che phủ bởi những đám mây mù, thêm vào đó khí hậu ẩm ướt quanh năm nên cây cối mọc chằng chịt, khó ai có thể vượt rừng đến đó được. Năm 1974, một phi công bay lạc vào phía Đông Bắc của rặng Sierra và phát hiện một Kim Tự Tháp rất lớn tọa lạc giữa rừng. Việc khám phá ra Kim Tự Tháp này đã thúc đẩy nhiều phái đoàn khảo cổ của các quốc gia khác nhau kéo đến đây nghiên cứu. Họ kết luận rằng chiếc Kim Tự Tháp xây bằng đá rất công phu này có những đường nét kiến trúc khác hẳn những Kim Tự Tháp khác tại Nam Mỹ, do đó nó thuộc một nền văn minh riêng biệt nào khác chứ không phải nền văn minh Incas hay Maya. Quanh Kim Tự Tháp là một thành phố bỏ hoang với những hệ thống đường xá được lót bằng đá hết sức công phu. Đặc biệt hơn nữa, quanh thành phố còn có một hệ thống ống cống thoát nước rất hữu hiệu, chứng tỏ người xưa đã hiểu biết rành rọt về vấn đề vệ sinh. Theo các nhà khảo cổ thì thành phố này đã được xây cất trên bảy ngàn năm trước khi nền văn minh Incas và Maya phát triển, và có lẽ là một trong những nền văn minh cổ nhất ở Nam Mỹ. Nếu thế, lịch sử nền văn minh này như thế nào? Chủng tộc nào đã sống tại đây? Tại sao họ lại biến mất, không để lại một dấu tích gì trừ chiếc Kim Tự Tháp và hệ thống đường xá tinh vi kia?
Các nhà nghiên cứu nhận xét rằng dù đã trải qua bảy tám ngàn năm mà hệ thống đường xá vẫn còn rất tốt, không bị hư hại, trong khi hệ thống xa lộ tối tân nhất tại Hoa Kỳ ngày nay nếu không được tu sửa, bảo trì thì chỉ vài chục năm đã hư hại chứ đừng nói đến trăm hay ngàn năm. Dọc theo những con đường lót bằng đá là những thửa ruộng trồng lúa và khoai, chứng tỏ nền văn minh này chú trọng nhiều về nông nghiệp. Một điểm đặc biệt là mỗi ngã tư đường lại có những tảng đá lớn, khắc ghi những ký hiệu lạ lùng trông như một tấm bản đồ. Bản đồ đường xá hay bản đồ chỉ dẫn điều gì vẫn còn là một câu hỏi lớn. Thông thường các nền văn minh cổ thường để lại nhiều dấu tích hay tài liệu ghi khắc về lịch sử, phong tục, tập quán, nhưng không hiểu sao tại đây họ không hề tìm thấy một dấu tích đặc biệt gì về nền văn minh này ngoài các tấm bản đồ kỳ lạ kia.

Cách đó không xa ở gần đỉnh núi có một bộ lạc người thiểu số gọi là Kogi sống biệt lập, không giao thiệp với ai. Các nhà khảo cổ đoán rằng có lẽ giống dân Kogi là con cháu của những người đã xây dựng lên Kim Tự Tháp và thành phố với đường xá xây bằng đá này, nhưng họ vẫn không biết vì sao một nền văn minh như vậy lại suy tàn và biến mất, không để lại dấu tích nào? Vì người Kogi sống biệt lập trên đỉnh Sierra, không tiếp xúc và giao thiệp với ai nên rất ít người biết đến họ. Trong khi những bộ lạc quanh vùng thường giao dịch, trao đổi hàng hóa với những người tỉnh thành, thì người Kogi rất thận trọng và kín đáo, rút lên những vùng núi cao, không tiếp xúc với ai hoặc chỉ giới hạn việc giao thiệp với một vài bộ lạc lân cận mà thôi.

Đầu năm nay (1993), ký giả Alan Ereira, phóng viên của đài BBC tại Columbia, nhận được tin bộ lạc Kogi từ lâu không tiếp xúc với ai, đã chấp thuận cho anh được phỏng vấn với điều kiện là anh phải đến tham dự buổi đại hội Tôn Giáo thế giới tổ chức tại Chicago vào tháng 9 năm 1993 và công bố một thông điệp của họ. Ký giả Ereira đã viết: “Đây là một biến cố đặc biệt. Tại sao bao năm nay không giao thiệp tiếp xúc với ai mà tự nhiên họ lại cho phép tôi được đến phỏng vấn, quay phim? Họ muốn gì đây? Tại sao một bộ lạc sống biệt lập trong vùng rừng sâu núi thẳm, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, lại biết có một đại hội Tôn Giáo nhóm họp tại Hoa Kỳ để gửi một thông điệp? Một điều may mắn là tuy người Kogi không liên lạc với ai, rất ít người biết đến ngôn ngữ của họ, nhưng vì họ tiếp xúc giới hạn với vài bộ lạc gần đó, nên chúng tôi đã tìm được một người dân bộ lạc này có thể nói được tiếng Kogi để làm công việc thông dịch”.

Phái đoàn của ký giả Ereira gồm 6 người, 2 ký giả, 1 nhân viên y tế và 3 nhân viên thu hình đã lên đường vào đầu năm 1993. Trải qua nhiều ngày tháng trèo đèo, lội suối, họ đã đến vùng đất của người Kogi nằm sâu trên đỉnh Sierra. Đường vào đây phải vượt qua một vực thẳm rất sâu, chỉ có độc một cây cầu treo bện bằng dây thừng bắt ngang qua bờ vực. Được thông báo trước, một phái đoàn Kogi đã ra đón tiếp trước bờ vực.

Khác với những bộ lạc thiểu số sống trong vùng thường ít mặc quần áo, tất cả những người Kogi đều mặc quần áo dệt bằng sợi màu trắng với tay áo thụng như cánh bướm. Một người lớn tuổi đã bắt đầu bằng một bài diễn văn ngắn:
- Chúng tôi là những trưởng lão của dân Kogi, chúng tôi chấp thuận cho phép các ông được đặt chân vào đây trong ba ngày. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đây là lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần cuối các ông được phép đến đây. Hiển nhiên việc này đã được Hội Đồng Trưởng Lão thảo luận rất kỹ và đồng ý. Chúng tôi là con cháu của một giống dân cổ, một giống dân đã có mặt trên trái đất này từ lâu lắm rồi, trước khi tổ tiên của các ông ra đời. Vì chúng tôi có mặt từ trước, chúng tôi tự coi mình là những người anh lớn trong đại gia đình nhân loại, do đó chúng tôi là anh và các ông là em. Theo lệ thường trong gia đình, người anh thay mặt Mẹ Cha để giáo dục, dạy dỗ các em; nhưng chúng tôi biết rằng các em còn trẻ quá, còn hung hăng quá, còn cứng đầu, cứng cổ, ngang bướng quá, chưa thể học hỏi được gì, nên trải qua mấy ngàn năm nay, chúng tôi, những người anh, đã quyết định giữ thái độ im lặng. Chúng tôi hy vọng theo thời gian, các em sẽ hiểu biết hơn, trưởng thành hơn và học hỏi được qua những lỗi lầm đã tạo. Tiếc thay thời gian qua nhanh, trải qua bao thế hệ mà các em không những chẳng học hỏi được gì lại còn tiếp tục phá hoại gia tài Mẹ Cha để lại, do đó những người anh lớn bắt buộc phải lên tiếng. Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi cho phép các ông được quan sát nếp sống của chúng tôi, một nếp sống truyền thống đã tiếp diễn mấy ngàn năm không thay đổi. Các ông được tự do nghiên cứu, ghi nhận, quay phim, chụp hình và làm tất cả những gì cần thiết, và sau đó chúng tôi có một thông điệp muốn gởi cho thế giới bên ngoài.

Ký giả Ereira ghi nhận: “Thật không thể tưởng tượng được cảm giác lạ lùng của chúng tôi khi vượt qua chiếc cầu treo lơ lửng trên miệng vực thẳm đó để bước chân vào vùng đất của người Kogi. Chúng tôi có cảm tưởng rằng thời gian đã dừng lại hoặc chúng tôi đã đi ngược thời gian để trở về một thời điểm nào đó của lịch sử. Mặc dù thời gian chỉ vỏn vẹn có ba ngày nhưng phái đoàn của chúng tôi đã làm việc không ngừng. Mọi người tùy theo khả năng chuyên môn đã tận dụng thời gian để khảo cứu, ghi nhận. Chuyên viên thu hình đã làm việc không nghỉ, ghi nhận được hơn hai mươi giờ phim ảnh tài liệu. Chuyên viên y tế đã khám hơn một trăm người và hoàn tất hồ sơ đầy đủ chi tiết về tình trạng sức khỏe của những người dân tại đây. Điều đặc biệt là tuy sống trong một tình trạng có thể tạm gọi là “thiếu tiêu chuẩn vệ sinh” theo quan niệm của những người “văn minh” như chúng ta nhưng chuyên viên y tế không hề tìm thấy một dấu hiệu nào về bệnh tật cả. Hàm răng của họ rất tốt, ngay cả triệu chứng sâu răng thường thấy tại các bộ lạc khác cũng không hề có tại đây. Tôi xin xác nhận rằng tất cả những gì chúng tôi ghi nhận đều được kiểm chứng cẩn thận để bảo đảm tính cách trung thực của nó. Vì thời gian quá ít, chúng tôi chỉ làm được những gì có thể làm và chắc chắn có nhiều thiếu sót. Tôi được biết có đến hơn hai mươi làng mạc rải rác trên đỉnh Sierra, nhưng chúng tôi chỉ được đến thăm một làng duy nhất mà thôi. Chắc hẳn người Kogi đã có một lý do riêng nào đó nên không muốn chúng tôi đi thăm những nơi khác, nhưng chúng tôi cũng không muốn tò mò tìm hiểu thêm làm gì. Các Trưởng Lão xác nhận rằng họ không giấu giếm chúng tôi điều gì nhưng cũng không muốn sự có mặt của chúng tôi gây xáo trộn cho đời sống yên lành của những người dân trong vùng.
Điều đặc biệt đầu tiên mà chúng tôi thấy là những người dân Kogi thường sinh hoạt chung. Mỗi khi cần làm việc gì thì mọi người kéo nhau ra làm việc đó một cách rất tự nhiên. Chúng tôi đã chứng kiến việc toàn thể dân chúng trong làng kéo nhau đắp lại con đường bằng đá dẫn vào làng. Họ tự động phân chia ra nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm làm một phần mà không cần phải có người hướng dẫn hay chỉ huy. Vì con đường này nối liền hai làng nên dân cả hai làng kéo nhau ra làm việc một cách hết sức trật tự.
Chúng tôi được biết mỗi làng có một Hội Đồng Trưởng Lão. Những người này thường cầm một chiếc ống nhỏ bằng gỗ, bên trong đựng vôi. Họ cầm một chiếc que xoay qua xoay lại để tán những mảnh đá vôi ra thành bột, thỉnh thoảng lại đưa lên miệng chấm một chút vôi vào đầu lưỡi. Một Trưởng Lão cho biết: chiếc ống vôi tượng trưng cho đời sống. Họ luôn tay xoay chiếc ống vôi đó vì đời sống luôn luôn thay đổi, tiếp diễn không ngừng. Đá vôi tượng trưng cho chất liệu của đời sống. Sở dĩ họ nghiền nát những miếng vôi rồi đưa lên miệng vì hành động đó làm cho đời sống trở nên ý nghĩa hơn. Tôi không hiểu rõ nghĩa của câu đó nên yêu cầu ông giải thích thêm. Vị Trưởng Lão đã nói: ”Đời sống là một sự mầu nhiệm. Nếu con người biết mài dũa thân và tâm để ý thức đời sống một cách trọn vẹn thì người ta sẽ ý thức được những việc khác phi thường hơn”.

Ký giả Ereira kết luận: “Tôi đã quan sát việc này rất lâu mà không thể giải thích gì hơn. Theo tôi thì có lẽ đây là một phương pháp tĩnh tâm, ý thức hành động của mình, một phương pháp giống như cách thực hành thiền định của người Á Châu. Việc mài dũa tâm và thân qua hành động xoay xoay chiếc ống vôi nhỏ trên tay là một điều lạ lùng rất khó giải thích”.
Chính giữa làng có một căn nhà rất lớn cất bằng lá cây. Đây là nơi hội họp của dân làng mỗi khi có việc quan trọng. Khác hẳn với những bộ lạc khác, chúng tôi không hề nhìn thấy các biểu tượng tôn giáo, tín ngưỡng gì cả. Căn nhà hoàn toàn trống trơn và rất sạch sẽ. Một vị Trưởng Lão cho biết đây là trung tâm sinh hoạt của làng, mọi việc quan trọng như cưới hỏi, chôn cất, trồng trọt, cày cấy, tiên đoán thời tiết đều được mang ra thảo luận tại đây để lấy quyết định chung. Tất cả mọi người đều có quyền phát biểu ý kiến, không có Tù Trưởng hay một ai nắm quyền hành cả. Ký giả Ereira ghi nhận: “Thật là một điều lạ lùng chưa từng thấy. Một bộ lạc không có Tù Trưởng, không có người lãnh đạo, mọi quyết định đều là quyết định chung. Phải chăng đây là một hình thức dân chủ thô sơ nhất và chân chính nhất đã có từ ngàn xưa? Theo chỗ chúng tôi dò hỏi thì không có một điều gì được làm nếu không có sự đồng ý chung, nhưng quyết định chung ở đây không có nghĩa là đa số trên thiểu số mà là quyết định của toàn thể mọi người (Concensus). Thật khó có thể tưởng tượng một bộ lạc sống biệt lập lại có một truyền thống dân chủ đặc biệt như vậy! Phải chăng nền văn minh cổ xưa ngày trước là một nền văn minh dựa trên căn bản dân chủ?”

Đơn vị nhỏ nhất của xã hội Kogi là đơn vị gia đình. Trung bình một gia đình gồm Cha Mẹ và các con nhỏ. Khi trẻ em còn nhỏ chúng được nuôi dưỡng bởi Cha Mẹ, phần lớn là người Mẹ trực tiếp nuôi nấng con cái. Nếu có bệnh tật thì các em được đưa đến cho các Trưởng Lão chữa bệnh. Đôi khi các Trưởng Lão cũng bó tay và em nhỏ không thể sống nhưng Cha Mẹ chúng chấp nhận, cho rằng đó là luật thiên nhiên. Nếu sống được đến lúc trưởng thành thì người Kogi có tuổi thọ rất cao, tuổi trung bình của họ là khoảng một trăm hay hơn thế nữa. Một Trưởng Lão cho biết: “Theo quan niệm của chúng tôi thì sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Bệnh tật chỉ là hậu quả của những gì trái với thiên nhiên. Ngoài ra sự tương giao giữa con người với thiên nhiên hết sức mật thiết và khi thiên nhiên bị phá hoại, chắc chắn con người sẽ bị ảnh hưởng theo, do đó con người phải biết tìm môi trường thích hợp để sống. Chính vì sống trái với các định luật thiên nhiên mà có đủ thứ bệnh kỳ lạ xảy ra, đây là bằng chứng hiển nhiên rằng con người chịu ảnh hưởng nhiều về môi trường và cách thức mà họ sinh sống”. Khi đứa nhỏ được khoảng bảy tuổi thì chúng bắt đầu rời Cha Mẹ để sống với Ông Bà Nội, Ông Bà Ngoại ở cách đó không xa để được giáo dục thêm về cách sống tự lập. Khi được hai mươi mốt thì đứa nhỏ đi theo các bậc Trưởng Lão học hỏi và khi gần ba mươi mới bắt đầu khởi sự lập gia đình riêng.

Người Kogi sống bằng cách canh tác và hái trái cây trong rừng, một lối sống hết sức thô sơ thường được gán cho các dân tộc còn man dã. Phương pháp trồng trọt của họ cũng rất giản dị. Họ dùng một cây nhọn để xắn đất, thảy vào đó vài hạt đậu rồi lấp lại. Việc trồng trọt hay gieo hạt được dành cho phái nữ vì người nữ “mát tay” hơn người nam. Một Trưởng Lão cho biết: “Chúng tôi vẫn biết có những phương pháp trồng trọt, canh tác khác có thể làm hoa mầu nảy sinh rất nhiều, nhưng có nhiều để làm gì? Gia đình nào thì cũng chỉ ăn ngày ba bữa. Có nhiều sẽ tạo nên tình trạng tham lam, tạo ra phiền toái vô ích. Thiên nhiên đã lo liệu chu toàn thì cứ theo đó mà sống. Các ông hãy nhìn kia, chim chóc không gieo hạt mà thiên nhiên có để cho chúng chết đói đâu? Các thú rừng khác cũng thế, chả loài nào thiếu ăn cả, vậy tại sao con người phải lo tàng trữ, gia tăng thu hoạch thực phẩm? Có dư làm rối loạn trật tự thiên nhiên, có nhiều hơn cái mình cần là lấy đi mất phần của người khác hay sinh vật khác, và như thế là vi phạm một định luật căn bản của thiên nhiên và truyền thống sẵn có của dân Kogi. Các ông nên biết người Kogi chỉ sống vừa đủ, hoàn toàn không có gì dư thừa và do đó tại đây không hề có trộm cướp hay các tệ nạn như các bộ lạc khác”.

Một điểm rất đặc biệt là người Kogi không hề ăn thịt cá. Khác hẳn với những bộ lạc khác, họ không hề săn bắn hay có võ khí. Truyền thống của họ không hề có vấn đề giết hại bất cứ một sinh vật nào, dù lớn hay nhỏ. Đây là một chi tiết đang làm nhức đầu nhiều nhà nhân chủng học và xã hội học. Từ trước đến nay, các lý thuyết đều cho rằng những bộ lạc dã man đều sinh sống bằng săn bắn và ăn cây trái trong rừng. Việc một bộ lạc không hề có tập tục ăn thịt cá là một sự kiện độc đáo, lạ lùng hiếm có và khó giải thích. Người Kogi cho rằng giết hại sinh vật là trái với luật thiên nhiên. Có lẽ vì lý do đó trong thời gian quay phim, phái đoàn đài BBC đã thấy rất nhiều hươu, nai, thỏ rừng, chồn cáo đi qua đi lại trong làng như những gia súc mà không hề sợ hãi. Vì chỉ sống bằng rau cỏ thiên nhiên nên việc học hỏi, nghiên cứu các lá cây có dược tính là một môn học được giảng dạy rất kỹ lưỡng tại đây. Người Kogi cho biết họ có thể sống từ ngày này qua ngày khác bằng cách ngậm một vài lá cây mà thôi, có lẽ vì chỉ ăn rau trái mà họ sống lâu như vậy!

Phái đoàn đã ghi nhận việc một Trưởng Lão dạy dỗ một thanh niên cách ăn uống như sau: “Khi ăn phải nhai thật từ từ, thong thả, phải ý thức từng chút một và tuyệt đối chú tâm vào việc ăn chứ không được nghĩa gì khác”. Cách ăn uống, làm chủ vị giác là bài học vỡ lòng đầu tiên trong phương pháp giáo dục của họ. Truyền thống tại đây không có trường học mà chỉ có cách dạy dỗ khẩu truyền từ Cha Mẹ, Ông Bà cho con cháu, và từ các bậc Trưởng Lão cho những thanh niên. Cách giáo dục thanh niên tại đây cũng hết sức lạ lùng, có một không hai. Khi được khoảng hai mươi tuổi, thanh niên được gửi đến học hỏi với các bậc Trưởng Lão trong những túp lều đơn sơ hay một hang đá. Tại đây họ sẽ tập ngồi yên quay mặt vào vách tường trong bảy đến chín năm liền. Họ chỉ nhai một ít lá cây, uống một chút nước và chú tâm suy gẫm về những điều được giảng dạy. Mỗi ngày vào giờ giấc nhất định, các bậc Trưởng Lão có nhiệm vụ hướng dẫn sẽ bước vào trao cho họ một đề tài chi đó để suy gẫm.
Ký giả Ereira đã ghi nhận buổi giảng dạy trong một hang đá như sau: Thanh niên ngồi quay mặt vào vách, vị Trưởng Lão bước vào ngồi ở phía sau quan sát thanh niên kia một lúc rồi mới đưa chiếc ống đựng vôi cho thanh niên sử dụng. Ông nói: “Ngươi hãy xoay chiếc ống thật từ từ, thong thả, ý thức từng hành động và biết rằng mọi vật trong thiên nhiên lúc nào cũng thay đổi như chiếc ống đang xoay trong tay ngươi vậy. Ngươi phải biết rằng đời sống vốn quý báu như vôi đựng trong ống, phải biết quý trọng đời sống của mình cũng như của mọi sinh vật. Tất cả hiện diện nơi đây vì một ý nghĩa nhất định chứ không phải tình cờ”.

Trong một hang đá khác, một Trưởng Lão giảng dạy về cách canh tác:
“Ngươi phải biết tôn trọng từng gốc cây, từng ngọn cỏ vì cây cỏ cũng có đời sống riêng của nó. Đừng bao giờ nghĩ đến việc chặt một cây mà không nghĩ đến hậu quả mà ngươi sẽ gây ra. Cây cối cho ngươi trái ăn, cho ngươi bóng mát và che chở ngươi khi cần thiết, vậy ngươi phải biết tôn trọng cây cối. Ngươi phải biết vạn vật liên quan với nhau chặt chẽ và ngươi phải ý thức rõ rệt về sự tương quan mật thiết này. Phá hoại trật tự này là phá hoại đời sống và phá hoại đời sống chính là tự hủy đó”.

Ký giả Alan Ereira kết luận:
“Trong suốt chín năm ngồi quán xét sự liên hệ giữa các sinh vật với nhau, về mối liên quan giữa con người và con người, người và thú vật, người và rừng cây, người và con suối, mà họ biết tôn trọng thiên nhiên, không giết hại, không ăn thịt cá. Họ biết ý thức sự sống tràn đầy trong thiên nhiên, từ đỉnh núi cao xa to lớn cho đến những côn trùng bé nhỏ, từ những trận mưa đầu mùa đổ nước xuống các giòng suối tươi mát cho đến những hoa thơm cỏ lạ mọc trong các thung lũng. Tâm thức họ tràn đầy các hình ảnh tuyệt vời của thiên nhiên qua các điệu nhạc mà chim chóc hòa tấu, thưởng thức hương thơm của cỏ hoa, rung động với các thay đổi của thời tiết... Chắc chắn điều này phải có một kết quả lạ lùng nào đó vì khi trưởng thành, bước ra khỏi hang đá, con người đó phải là một con người ý thức rất sâu xa về mình và sự tương quan giữa mình và mọi vật. Khi đó họ trở nên một con người mà theo tập tục của xã hội Kogi là người đã trưởng thành, có thể lập gia đình, có bổn phận với xã hội hoặc tiếp tục đi theo các bậc Trưởng Lão để học hỏi thêm và trở nên một trong những người này. Danh từ “Trưởng Lão” của người Kogi không hề có nghĩa là người chỉ huy mà chỉ có nghĩa là một người khôn ngoan (wise man) mà thôi”.

Muốn đi theo con đường của các bậc Trưởng Lão, một thanh niên còn phải học hỏi trong nhiều năm. Một trong những phương pháp quan trọng là việc tĩnh tâm để “giao cảm với tâm thức vũ trụ”, nhờ đó họ có thể biết được nhiều việc xảy ra trên thế giới mặc dù không rời khỏi phạm vi của đỉnh Sierra. Đa số các Trưởng Lão thường bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày để ngồi yên lặng, giao cảm với thiên nhiên, vì đối với họ việc tĩnh tâm là mục đích chính của đời sống. Các nhu cầu như ăn uống chỉ là phụ thuộc. Người ta chỉ bỏ ra vài giờ vào rừng hái trái cây, uống nước suối là đủ rồi, nhưng người ta không thể sống mà thiếu ý thức về mình được.

Một vị Trưởng Lão cho biết: “Vũ trụ là một tấm gương lớn, phản ảnh tất cả mọi việc xảy ra trong đó. Biết rung động với vũ trụ là biết quán xét tấm gương kia, do đó người ta đâu cần phải đi đâu xa mà cũng biết được những điều cần thiết. Việc ngồi chín năm trong động đá đâu phải chỉ ngồi đó nhai vài lá cây, suy nghĩ vài câu nói, mà đòi hỏi người ta phải nổ lực tìm hiểu về mình, vì biết mình chính là biết được vũ trụ và biết được vũ trụ thì tất hiểu được các định luật thiên nhiên. Đã hiểu được các định luật này một cách sâu xa thì làm sao có thể làm trái với nó được? Sở dĩ con người làm việc sai quấy vì họ không biết mình, chỉ sống hời hợt, quay cuồng và dựa trên những giá trị có tính cách giả tạo, những giá trị do tập đoàn tạo ra chứ không phải phát xuất từ những công phu suy gẫm sâu xa. Sống như thế không thể gọi là sống. Đó là sống mà như chết, thân thể tuy sống mà đầu óc đã chết từ lâu rồi!”

Đối với người Kogi, việc chết cũng rất giản dị. Khi cảm thấy đã đến lúc phải ra đi, một người già thường tìm vào một hang đá sâu và ngồi yên trong đó chờ chết. Họ không làm đám tang, gia đình than khóc như những bộ lạc khác, mà họ cho rằng đó là một việc bình thường, không có gì đáng quan tâm. Một điểm hết sức đặc biệt nữa của người Kogi là họ không hề có một tín ngưỡng thờ thần linh hay vật tổ như các bộ lạc khác. Truyền thống nơi đây chú trọng trên căn bản tĩnh tâm suy gẫm nên họ đã có những quan niệm hết sức đặc biệt, khác hẳn với những nền văn minh khác tại Nam Mỹ. Theo quan niệm của người Kogi truyền từ đời này qua đời khác thì thuở ban sơ, vũ trụ hoàn toàn trống rỗng, không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú hay bất cứ một cái gì và chính cái trống rỗng uyên nguyên đó được gọi là “Mẹ Vũ Trụ” hay Kaluna. Danh từ “Mẹ Vũ Trụ” không phải một đấng Hóa Công (Creator) mà chỉ là một tâm thức (Mind), một trạng thái tuyệt đối hoàn hảo của tâm thức.

Một Trưởng Lão đã nói: “Các quan niệm như tinh tú, mặt trời, mặt trăng, đất nước gió lửa từ đâu đến? Phải chăng từ tâm thức này sinh ra? Chính tâm thức đó phát sinh ra tư tưởng và khi tư tưởng vận hành, giống như cuộn chỉ xoay từ sợi, mà tất cả mọi vật đều phát sinh. Tóm lại, tất cả đều do Tâm tạo. Có tất cả chín thế giới phát sinh từ tâm thức vũ trụ cũng như một người Mẹ sinh ra chín đứa con. Một đứa con có một đặc tính hay sắc thái tiêu biểu bằng các màu sắc khác nhau. Thế giới thứ chín chính là cái thế giới mà hiện nay chúng ta đang sống. Tất cả mọi thế giới đều tuân theo những quy luật nhất định liên quan đến việc sinh ra, lớn lên, phát triển rồi chết đi. Đó là định luật thiên nhiên không thể thay đổi. Ý thức rõ rệt các định luật này rất quan trọng vì nó là cây cầu tâm thức nối liền chúng ta và các cảnh giới khác và sau cùng với Mẹ Vũ Trụ (Kaluna). Chính vì ý thức mà người ta biết rằng trái đất này không phải tạo ra riêng cho loài người mà cho tất cả mọi sinh vật khác nữa”.

Ký giả Ereira đã đặt câu hỏi về Kim Tự Tháp và thành phố bỏ hoang với Trưởng Lão người Kogi nhưng họ lắc đầu từ chối không tiết lộ gì về lịch sử của thành phố đó. Mặc dù họ tự nhận là con cháu của những người đã xây cất ra thành phố đó nhưng họ cho biết: “Tại sao các ông cứ quan tâm đến những ký hiệu lạ lùng, những tấm bản đồ bằng đá kia làm chi? Các ông sẽ không thể hiểu nổi những ẩn nghĩa đó khi tâm các ông còn xáo trộn. Các tâm hồn non dại, chưa trưởng thành, chưa biết làm chủ mình thường chỉ thích tò mò chạy theo những gì kỳ lạ, những hão huyền bên ngoài chứ không biết quay vào bên trong để hiểu chính mình. Chỉ khi biết mình thì mới biết được những điều mà Kim Tự Tháp kia được xây cất vào việc gì và những tảng đá ghi khắc các ký hiệu kia để chỉ dẫn những gì. Khi xưa tổ tiên của chúng tôi đã biết rõ những điều này nhưng khi con người trở nên tham lam, ích kỷ, giết hại, ăn thịt cá, phá hoại trật tự của thiên nhiên thì tổ tiên chúng tôi biết không thể thay đổi gì được. Họ rút vào rừng sâu núi thẳm, chờ đợi những người em sẽ rút tỉa những bài học mà họ phải học, những lỗi lầm mà họ đã gây ra, nhưng tiếc thay đã bao lâu nay hình như chẳng mấy ai học hỏi được điều gì hết!”

Sau ba ngày ghi nhận, tiếp xúc và quay phim, buổi tối hôm ấy, mọi người quây quần trong căn nhà chính để nghe một Trưởng Lão tuyên bố về thông điệp mà họ muốn gửi cho thế giới. Đó là một ông lão lớn tuổi nhưng còn khỏe. Nhìn hàm răng còn nguyên vẹn, mọi người nghĩ ông lão chỉ vào khoảng sáu mươi là nhiều nhưng về sau ký giả Ereira được biết vị Trưởng Lão này đã sống trên một trăm năm rồi. Hầu như vị Trưởng Lão nào cũng đều trên một trăm tuổi trở lên cả. Chúng tôi không nhìn thấy những dấu vết già yếu, bệnh tật trên thân thể họ như vẫn thường thấy ở các bộ lạc khác.

Vị Trưởng Lão lên tiếng:
“Chúng tôi đã thảo luận rất kỹ về điều chúng tôi muốn nói. Chúng tôi muốn gửi một thông điệp cho các em trong gia đình nhân loại. Chúng tôi nói bằng trái tim, những lời nói chân thành nhất rằng hiện nay nhân loại sắp bước vào một thảm họa rất lớn mà từ trước đến nay chưa hề xảy ra.

Thứ nhất, nhân loại cần biết rằng tất cả chúng ta đều là anh em một nhà, đều là con cùng một Mẹ. Dù chúng ta có màu da khác nhau, mặc quần áo khác nhau, có những truyền thống khác nhau, tuân theo những quan niệm khác nhau, sống trong những điều kiện khác nhau nhưng tất cả chỉ là bề ngoài mà thôi. Bên trong chúng ta đâu hề khác biệt. Khi đói chúng ta đều đói như nhau, lúc khát chúng ta đều khát như nhau, chúng ta đều có cảm giác vui buồn như nhau. Hiển nhiên phải như vậy rồi vì chúng ta đều là con cùng một Mẹ, nhưng tiếc là các em đã không chú ý đến điều này vì các em đã quên mất nguồn gốc thiêng liêng của các em rồi!

Sống xa Mẹ đã lâu, các em đã quên hẳn người Mẹ sinh ra các em, săn sóc, che chở, nuôi dưỡng các em. Vì thiếu ý thức, các em đã phá nát gia tài Mẹ Cha để lại, phá hoại một cách không thương tiếc, không một mảy may thương tiếc! Các anh đây sinh trước, gần Cha Mẹ hơn nên hiểu được lòng Mẹ Cha đang tan nát, đau khổ. Mẹ đã buồn vì các con sinh sau nở muộn đã không biết thương yêu nhau mà trái lại cứ chém giết, hận thù nhau, làm hại lẫn nhau khiến Mẹ Cha khổ sở vô cùng. Không những thế, các em còn dày xéo lên thân thể Mẹ Cha mà không biết rằng các em đang giết hại chính đấng đã sinh ra các em. Các anh biết rõ việc này nên chỉ muốn khuyên các em hãy dừng lại, quan sát và ý thức việc làm hiện nay của các em vì giết hại đấng sinh thành ra mình chính là giết hại chính mình đó.

Mẹ của các em là ai? Chính là trái đất này. Lòng Mẹ chính là biển cả và trái tim của Mẹ chính là những dãy núi cao có mặt khắp nơi. Này các em! đốt rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của Mẹ đó. Mẹ là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có Mẹ. Nếu trái đất bị hủy hoại thì chúng ta sẽ sống ở đâu? Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cần xét đoán một cách nghiêm chỉnh. Các anh không biết trong vòng vài năm nữa thế giới sẽ biến đổi như thế nào? Chắc không lấy gì tốt đẹp lắm đâu nếu các em cứ tiếp tục phá hoại mà không biết bảo trì môi trường sinh sống. Tại sao được thừa hưởng một gia tài tốt đẹp như thế mà chúng ta lại phá hoại nó đi vậy? Tại sao các em không nghĩ rằng trải qua mấy ngàn năm nay, thế hệ trước đã giữ gìn cẩn thận, đã trân trọng từng tấc đất, từng ngọn suối, từng khóm cây, ngọn cỏ mà ngày nay các em lại phá nát không hề thương tiếc? Làm sao các em có thể tự hào rằng mình “văn minh” khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày một khổ đau nhiều hơn xưa? Làm sao có thể nói rằng nhân loại đã “tiến bộ” khi con người ngày càng gia tăng thù hận, chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi? Các anh biết vậy nhưng phải làm sao đây? Làm sao có thể nói cho các em biết rằng vũ trụ có những định luật vô cùng lớn lao, không thể vi phạm được? Lòng các anh vô cùng đau đớn vì các anh thấy rằng trái đất đã khô kiệt rồi, mọi sự sống đang lâm nguy và thảm họa diệt vong chỉ còn trong giây lát. Do đó các anh muốn kêu gọi khẩn thiết rằng hãy thức tỉnh, ngưng ngay những việc có tính cách phá hoại đó lại, nếu không thì trễ quá mất rồi!”

Ký giả Ereira ghi nhận: “Thật khó có thể tin rằng những người Kogi lại biết rõ tình trạng phá hoại môi sinh và chiến tranh đang xảy ra trên thế giới hiện nay khi họ không rời khỏi phạm vi của đỉnh Sierra. Tuy nhiên điều này có lẽ cũng không sai vì có nhiều bằng chứng rằng môi trường sinh sống của nhân loại đang bước vào một giai đoạn nguy kịch rõ rệt. Một bằng chứng hiển nhiên là lớp tuyết trên đỉnh Sierra trước kia vẫn đóng rất dày mà nay chỉ còn trơ lại một vài mảng mà thôi. Gần đỉnh núi có một hồ nước rất lớn, vốn là nơi lưu trữ nước khi tuyết tan vào mùa hè. Hồ nước này sẽ đổ xuống các sông ngòi, chảy qua những đồng bằng trước khi chảy ra biển. Hiện nay hồ nước này cũng đã gần cạn khô, mực nước tại sông ngòi quanh vùng đều xuống rất thấp và dân chúng ở vùng đồng bằng đã than là suốt mấy năm nay, nạn hạn hán đã hoành hành dữ dội, số lượng thóc lúa thu hoạch được càng ngày càng xuống rất thấp. Khắp nơi trên thế giới, người ta nói về tình trạng nhiệt độ gia tăng (Global Warming) gây ra bởi nạn đốt rừng, phá núi, xẻ đường và hậu quả của những ô nhiễm kỹ nghệ. Thêm vào đó biển cả cũng gặp nhiều khó khăn bởi việc các chất cặn bã gia tăng, giết hại các vi sinh vật, căn bản của đời sống các loài thủy tộc. Thêm vào đó, việc phát triển các kỹ thuật đánh cá tối tân bằng các tấm lưới khổng lồ như lưới vét (Drift Net) của các quốc gia tân tiến đã làm nhiều dân tộc sống ở ven biển gặp nhiều khó khăn về thực phẩm vì chẳng còn có cá để ăn”.

Người ta đã tiên đoán rằng chỉ vài năm nữa thế giới sẽ lâm vào tình trạng suy kiệt dinh dưỡng. Nạn đói kém sẽ xảy ra khắp nơi, và những quốc gia làm chủ được thực phẩm sẽ là những quốc gia có quyền lực mạnh nhất. Biết rõ nguy nan này, các quốc gia tân tiến đang phát động những căn bản kinh tế, kỹ nghệ mới đặt trên vấn đề môi sinh mà nạn nhân đầu tiên sẽ là các quốc gia kém mở mang, chậm tiến. Chính những quốc gia này sẽ trở thành miếng mồi ngon để các quốc gia tân tiến kéo đến mở mang kỹ nghệ, phóng uế bừa bãi các chất cặn bã, và phá hoại môi sinh. Nhân danh khoa học kỹ thuật, các quốc gia tân tiến đang cho thuyên chuyển những nhà máy, kỹ nghệ từ xứ họ qua những quốc gia khác dưới những danh nghĩa rất tốt đẹp như hợp tác, phát triển kỹ thuật. Hiển nhiên họ đã ý thức tình trạng phá hoại môi sinh và hậu quả của nó trong quốc gia của họ và quyết định nếu kỹ nghệ là cần thiết thì hậu quả của nó phải xảy ra một nơi nào khác chứ không phải trên lãnh thổ của họ.

Nói một cách khác, chính sách “thực dân mới” sẽ không xây dựng trên tình trạng chiếm đất, nhưng sẽ đặt trên căn bản phá hoại môi sinh tại những nơi khác, vì đây là một sự phá hoại có tính cách vĩnh viễn, không thể phục hồi. Những quốc gia mà môi sinh bị phá hoại sẽ không bao giờ ngóc đầu lên được khi tình trạng thực phẩm thiếu sót vì đất mầu bị phá hoại, rừng rậm bị phá hủy, biển cả và đất đai chứa đựng toàn những chất ô nhiễm. Dĩ nhiên dân chúng sẽ bị những bệnh tật kỳ dị không thể chữa, những thứ bệnh có thể gây tổn thương đến yếu tố di truyền và hoàn toàn suy kiệt nhân lực (Oligarchy) bởi các hóa chất kỹ nghệ.

Thế giới ngày nay đang bước vào một khúc quanh lịch sử mà trong đó tình trạng môi sinh sẽ đóng một vai trò thiết yếu, quan trọng. Khi phái đoàn ký giả đài BBC rời rặng Sierra vào tháng hai năm 1993, những người Kogi đã ân cần nhắn nhủ: “Xin các ông hãy mang thông điệp này ra gửi cho thế giới bên ngoài để nhân loại biết rằng tình trạng đã thực sự nguy kịch lắm rồi! Nếu họ không chịu thức tỉnh thì đợi đến bao giờ nữa đây?”
Blog EntryAug 1, '09 8:45 AM
for everyone
- Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu với mục đích tìm hiểu xem: con người bắt đầu gì đi ở độ tuổi nào? Kết quả cho thấy rằng, quá trình già đi của não thực ra bắt đầu từ sớm hơn chúng ta vẫn tưởng tượng rất nhiều. Đó là vào tuổi 27.

Giáo sư Timati Salthaus tiến hành quan sát một nhóm 2000 người ở độ tuổi từ 18 tới 60 trong vòng 7 năm qua và thấy rằng não bộ của người đạt tới đỉnh điểm năng lực là vào tuổi 22. Từ năm 27 tuổi bắt đầu quá trình lão hóa. Trí nhớ bắt đầu suy giảm vào độ 37 tuổi và giảm nhanh hơn sau 42 tuổi.

Như vậy, não bộ con người bắt đầu lão hóa còn sớm hơn cơ thể con người rất nhiều. Và nếu bạn dự định làm một công trình khoa học nào đó thì có lẽ tốt hơn hết là hãy tiến hành nó trước tuổi 22.

  • Nguyễn Hường (theo Rambler)
Cho đến nay, người ta vẫn cho rằng tổ tiên của loài người tiến hoá từ loài vượn ở châu Phi, nhưng từ những hoá thạch khai quật ở Myanmar, nhà nhân chủng học Chris Beard lại cho rằng quá trình này xảy ra tại Châu Á.
Mô tả ảnh.
Đoàn khảo cổ tại Myanmar - Ảnh: Carnegiemuseums. org
Những hoá thạch mới phát hiện ở Myamar có thể chứng minh rằng tố tiên chung của loài người, khỉ và vượn người đều tiến hoá từ loài linh trưởng ở Châu Á chứ không phải Châu Phi. Phát hiện này được tuyên bố ngày 3/7/2009 vừa qua.

Tuy nhiên, những nhà khoa học khác tuyên bố, tuy phát hiện mới này có ý nghĩa rất lớn nhưng chưa đủ “mạnh” để kết thúc cuộc tranh cãi về nguồn gốc của vượn người – nhóm linh trưởng bao gồm những loài khỉ cổ xưa và con người hiện đại.

TS Chris Beard, một nhà nhân chủng học tại Viện Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Carnegie tại Pittsburgh (Hoa Kỳ) và các thành viên trong Đoan khảo cổ đã tìm được các hoá thạch cho biết: Những mảnh hoá thạch gồm xương hàm và răng 38 triệu năm tuổi tìm thấy gần Bagan, miền Trung Myanmar vào năm 2005, thể hiện những nét đặc trưng của loài linh trưởng.

"Khi tìm thấy những hoá thạch này, chúng tôi biết ngay rằng chúng tôi đã phát hiện một loài linh trưởng mới, đồng thời xác định ngay được về cơ bản đó là loài linh trưởng nào” - TS Beard nói trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại tại Pittsburgh - “Hàm và răng chứa đầy những thông tin đặc trưng... Chúng giống như những dấu vân tay vậy”.
 
Các phát hiện này được công bố trên Tạp chí Proceedings of The Royal Society B tại London. 
TS Beard và Đội khai quật của ông gồm những thành viên từ Pháp, Thái Lan và Myanmar đã kết luận rằng các hoá thạch ấy là di vật của 10 đến 15 cá thể của một loài linh trưởng có tên khoa học là Ganlea megacanina, một loài mới trong họ linh trưởng dạng người ở châu Á đã tuyệt chủng, có tên là Amphipithecidae.

Theo TS Beard, những chiếc răng nanh tìm được đã bị hư hại ít nhiều cho thấy đây là răng của một loài vật giống như khỉ sống ở trên cây có đuôi dài, dùng để cắn vỡ các quả nhiệt đới để ăn thịt , quả và nhân của hạt – cách sinh hoạt ấy tương tự như loài khỉ saki ở Nam Mỹ ngày nay, sống tại lưu vực sông Amazon.

"Không những loài Ganlea trông có dạng người mà còn có cách sinh hoạt tựa như vượn người 38 triệu năm về trước với cách sống rất đặc trưng”, TS Beard nói thêm. 38 triệu năm tuổi – như họ xác định – là trước những hoá thạch dạng người được tìm thấy ở châu Phi và châu Á nhiều triệu năm.
Vào năm 1994, Beard và các đồng nghiệp Trung Quốc đã tìm thấy xương chân của hoá thạch
TS Chris Beard, nhà nhân chủng học trình bày giả thuyết của mình với đồng nghiệp. Ảnh: AP
TS - Nhà nhân chủng học Chris Beard - Ảnh: AP
dạng người Eosimias, một trong những loài linh trưởng nhỏ nhất thế giới, có mặt trên Trái đất từ 40 đến 45 triệu năm về trước và sông lang thang trong những khu rừng ở bờ biển phía đông Trung Quốc. TS Beard cho rằng tuổi của hai loại hoá thạch là dẫn chứng thuyết phục cho giả thuyết của ông nhằm bác bỏ những giả thuyết trước đây cho rằng loài người tiến hoá từ châu Phi, nơi năm 1974 người ta phát hiện ra hoá thạch Lucy chỉ mới 3,2 triệu năm (được khẳng định là “bà tổ” của loài người). 

"Hoá thạch Ganlea vừa phát hiện cho phép chúng tôi giả định tổ tiên chung của loài người, khỉ và vượn người ở châu Á chứ không phải ở châu Phi”, TS Beard quả quyết. 

Vào tháng 5, các nhà nghiên cứu cũng phát hiện một bộ xương loài linh trưởng có 47 triệu năm tuổi ở Đức, gọi là "Ida" đã khiến người ta bắt đầu có cái nhìn mới vào tổ tiên xa xưa của loài người. 
"Chúng tôi vẫn tin rằng Ganlea liên quan nhiều đến tổ tiên của chúng ta hơn là Ida, chỉ tiếc rằng chúng tôi không có cả một bộ xương hoàn chỉnh như Ida”, ông nói.

Jorn Hurum, người đã mang Ida về Viện Bảo tàng Lịch sử tự nhiên thuộc Trường ĐH Oslo, nói rằng kết luận này là quá sớm vì chứng cớ mới chỉ là xương răng và xương hàm. Theo Hurm "Dẫn chứng như vậy là chưa đầy đủ đối với một cuộc tranh luận khoa học. Phải tìm được cả một bộ xương hoàn chỉnh như Ida, mà chắc điều này phải mất hàng trăm năm nữa”. Trong khi đó giáo sư John G. Fleagle, một nhà nhân chủng học tại ĐH Stony Brook, cho rằng việc phát hiện ra Ganlea là rất quan trọng, có thể làm cơ sở cho những giả thuyết mới, song vẫn chưa đủ để nói loài người xuất xứ từ Châu Phi hay Châu Á, thậm chí Ganlea là tiền thân của loài người hay chỉ là họ hàng đầu tiên của vượn cáo (còn gọi là khỉ lemur, hiện sống ở Madagascar).
Ông nói: "Dẫn chứng thuyết phục phải là xương sọ. Nếu không có xương sọ đặc trưng cho khỉ dạng người ở vùng mắt và tai, thì các nhà khoa học vẫn phải tiếp tục tranh luận quanh những sự tương đồng về răng để chỉ ra những thức ăn chung...” 
TS Beard tiếp nhận tất cả những ý kiến tranh luận. Tháng Mười một này, ông và Đội khai quật sẽ quay lại Myanmar để tiếp tục tìm kiếm các hoá thạch và các dẫn chứng vượn người tiến hoá ở Châu Á ra sao và di cư sang Châu Phi bằng cách nào. Ông cho biết "Vấn đề là cuộc tiến hoá vĩ đại này khi nào chuyển từ Châu Á sang Châu Phi và chuyển như thế nào. Chúng tôi đang cố gắng chứng minh. Chúng tôi có một đơn vị làm việc ở Myanmar, và đội này đã có kế hoạch về các địa điểm chúng tôi sẽ đến ở Châu Phi và từ đây, chúng tôi sẽ tìm ra một đường dây”.
  • Tuấn Hà (Theo AP. org)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Comment bằng chữ có dấu .
Không dùng chữ Việt bị biến dạng (như nhìu, dzo)