Nói lái | for everyone |
Như
ta đã biết, ngôn ngữ là chất liệu xây dựng hình tượng văn học, là
phương tiện giao tiếp, là công cụ tư duy của con người... Trong quá
trình giao tiếp người ta thường dùng cử chỉ, điệu bộ, biện pháp tu từ…
để lời nói thêm sinh động, phù hợp với thế giới cuộc sống muôn màu muôn
vẻ. Trong đó hình thức ’’nói lái” có những nét độc đáo thường được người
nói, người viết chú ý.
Trẻ em dùng hình thức nói lái như một dấu hiệu riêng để trao đổi thông tin với nhau. Chẳng hạn như “Tùng ơi đi chơi” thành ra ”Tời ung – đơi chi”, “ăn cơm” thành ra “ơm căn”… Những lúc quây quần đùa giỡn, các em không dùng từ thể hiện ý nghĩa trực tiếp mà dùng cách nói lái để chọc ghẹo nhau, ví như không nói “mít ướt” mà nói “mướt ít”, không nói “đầu bò” mà nói “đò bầu”…Có khi các em vừa nói trực tiếp vừa nói lái (tức là nói cả hai một cách liên tục) như: bọn đì + bị đòn, ăn gian + an giăn… với cách nói này, các em không cần phải học tập sách vở mà vẫn biết. Vì vậy , ngưới lớn cũng thường dùng nói lái với trẻ con giúp trẻ vui vẻ, tạo cho các em sự vận động não bộ suy nghĩ .
Có khi trẻ dùng hình thức nói lái để đố với nhau về những sự vật hiện tượng như:
“Trên trời rơi xuống mau-co” - đố là cái gì ? - cái mo cau, hoặc ”Ghe chài chìm giữa biển đông / Ván phên trôi hết cái công nó còn’’ là cái gì ?- "công còn " là con còng...
Trong văn học dân gian người ta dùng nói lái trong những lúc vui vẻ hoặc trong những hoàn cảnh khó xử, khó nói. Chẳng hạn như trong ca dao, có những đôi trai gái khéo léo gởi gắm tình cảm cho nhau:
Cam sành nhỏ lá thanh ương (anh thương)
Ngọt mật thanh đường nhắm lớ (nhớ lắm) bớ anh
Thanh ương là tuổi mong chờ
Một mai nhái lặn (nhắn lại) chà quơ (chờ qua) , quơ chà (qua chờ)
"Qua" và "bậu" là những tiếng xưng hô của những đôi trai gái ngày xưa.
Hoặc khi Trạng Quỳnh đối đáp với một bà chúa. Bà chúa thì xấu người, hay hống hách, khi Trạng Quỳnh đi trên đường gặp bà chúa thì Trạng Quỳnh hoảng sợ nhảy xuống cái ao cạnh bên đường, nhè mấy đám bèo mà đá tứ tung. Lúc bà chúa hỏi thì Trạng Quỳnh thưa: nhà buồn quá ra đây “đá bèo chơi”, bà chúa không trách móc được gì lại thúc võng đi.
Trong văn học viết, danh sĩ nổi tiếng Hồ Xuân Hương đã khéo léo đưa cách nói lái vào trong thơ. Có lẽ bà hay đùa cợt hoặc vì bà căm tức những hạng người kém cỏi trong xã hội phong kiến đương thời:
‘’Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo’’
Và nhờ nói lái như vậy mà tiếng cười trong thơ của bà thêm ý mỉa mai sâu sắc...
Trong cuộc sống hiện đại, người lao động thường tập trung vào công việc, dễ gây mệt mỏi vì vậy họ cũng thích nói lái để tạo sự hài hước, dí dỏm vui tươi.Thực tế có những cách nói lái phù hợp với hoàn cảnh. Khi vui, tuỳ lúc họ có thể nói: ngày cưới - người cái (mỗi người uống một chung rượu), ít ly - y lít, bí mật - bật mí, tình nghĩa - tỉa (một) nghìn... Hoặc khi chưa hài lòng về một điều gì đó, tuỳ lúc họ có thể nói: thi đua - thua đi, đấu tranh – tránh đâu, đầu tư - từ đâu, bàn tính - bình (rồi) tán...
Còn những lúc vui bên bàn tiệc thì người ta lại cao hứng: âu cái đằn - ăn cái đầu, ê cái mằn - ăn cái mề ...cách nói lái sáng tạo như vậy cũng được người nghe chấp nhận vì nó tạo được sự chú ý và liên tưởng bất ngờ.
Như vậy, ta có thể hiểu nói lái là cách đánh tráo vần, thanh điệu... giữa hai hoặc ba tiếng với nhau, nó không rườm rà không phức tạp mà rất đơn giản dễ vận dụng để tạo thêm nghĩa mới phù hợp với mục đích giao tiếp. Một số người cho rằng: nếu không có những cách nói lái này, quá trình giao tiếp sẽ kém sinh động hơn, đơn điệu hơn. Tuy nhiên nói lái cũng tuỳ hoàn cảnh, mức độ vừa phải, dùng thường xuyên sẽ gây nhàm chán. Ngoài ra những cách nói lái nếu dùng không đúng chỗ, đúng nơi, sẽ không thể hiện được nét văn hoá giao tiếp chắc chắn khó được chấp nhận. Ví dụ chỗ hội họp quan trọng không ai dùng cách nói lái.
(Theo Vannghedongbangsongcuulong)
_____________
Trẻ em dùng hình thức nói lái như một dấu hiệu riêng để trao đổi thông tin với nhau. Chẳng hạn như “Tùng ơi đi chơi” thành ra ”Tời ung – đơi chi”, “ăn cơm” thành ra “ơm căn”… Những lúc quây quần đùa giỡn, các em không dùng từ thể hiện ý nghĩa trực tiếp mà dùng cách nói lái để chọc ghẹo nhau, ví như không nói “mít ướt” mà nói “mướt ít”, không nói “đầu bò” mà nói “đò bầu”…Có khi các em vừa nói trực tiếp vừa nói lái (tức là nói cả hai một cách liên tục) như: bọn đì + bị đòn, ăn gian + an giăn… với cách nói này, các em không cần phải học tập sách vở mà vẫn biết. Vì vậy , ngưới lớn cũng thường dùng nói lái với trẻ con giúp trẻ vui vẻ, tạo cho các em sự vận động não bộ suy nghĩ .
Có khi trẻ dùng hình thức nói lái để đố với nhau về những sự vật hiện tượng như:
“Trên trời rơi xuống mau-co” - đố là cái gì ? - cái mo cau, hoặc ”Ghe chài chìm giữa biển đông / Ván phên trôi hết cái công nó còn’’ là cái gì ?- "công còn " là con còng...
Trong văn học dân gian người ta dùng nói lái trong những lúc vui vẻ hoặc trong những hoàn cảnh khó xử, khó nói. Chẳng hạn như trong ca dao, có những đôi trai gái khéo léo gởi gắm tình cảm cho nhau:
Cam sành nhỏ lá thanh ương (anh thương)
Ngọt mật thanh đường nhắm lớ (nhớ lắm) bớ anh
Thanh ương là tuổi mong chờ
Một mai nhái lặn (nhắn lại) chà quơ (chờ qua) , quơ chà (qua chờ)
"Qua" và "bậu" là những tiếng xưng hô của những đôi trai gái ngày xưa.
Hoặc khi Trạng Quỳnh đối đáp với một bà chúa. Bà chúa thì xấu người, hay hống hách, khi Trạng Quỳnh đi trên đường gặp bà chúa thì Trạng Quỳnh hoảng sợ nhảy xuống cái ao cạnh bên đường, nhè mấy đám bèo mà đá tứ tung. Lúc bà chúa hỏi thì Trạng Quỳnh thưa: nhà buồn quá ra đây “đá bèo chơi”, bà chúa không trách móc được gì lại thúc võng đi.
Trong văn học viết, danh sĩ nổi tiếng Hồ Xuân Hương đã khéo léo đưa cách nói lái vào trong thơ. Có lẽ bà hay đùa cợt hoặc vì bà căm tức những hạng người kém cỏi trong xã hội phong kiến đương thời:
‘’Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo’’
Và nhờ nói lái như vậy mà tiếng cười trong thơ của bà thêm ý mỉa mai sâu sắc...
Trong cuộc sống hiện đại, người lao động thường tập trung vào công việc, dễ gây mệt mỏi vì vậy họ cũng thích nói lái để tạo sự hài hước, dí dỏm vui tươi.Thực tế có những cách nói lái phù hợp với hoàn cảnh. Khi vui, tuỳ lúc họ có thể nói: ngày cưới - người cái (mỗi người uống một chung rượu), ít ly - y lít, bí mật - bật mí, tình nghĩa - tỉa (một) nghìn... Hoặc khi chưa hài lòng về một điều gì đó, tuỳ lúc họ có thể nói: thi đua - thua đi, đấu tranh – tránh đâu, đầu tư - từ đâu, bàn tính - bình (rồi) tán...
Còn những lúc vui bên bàn tiệc thì người ta lại cao hứng: âu cái đằn - ăn cái đầu, ê cái mằn - ăn cái mề ...cách nói lái sáng tạo như vậy cũng được người nghe chấp nhận vì nó tạo được sự chú ý và liên tưởng bất ngờ.
Như vậy, ta có thể hiểu nói lái là cách đánh tráo vần, thanh điệu... giữa hai hoặc ba tiếng với nhau, nó không rườm rà không phức tạp mà rất đơn giản dễ vận dụng để tạo thêm nghĩa mới phù hợp với mục đích giao tiếp. Một số người cho rằng: nếu không có những cách nói lái này, quá trình giao tiếp sẽ kém sinh động hơn, đơn điệu hơn. Tuy nhiên nói lái cũng tuỳ hoàn cảnh, mức độ vừa phải, dùng thường xuyên sẽ gây nhàm chán. Ngoài ra những cách nói lái nếu dùng không đúng chỗ, đúng nơi, sẽ không thể hiện được nét văn hoá giao tiếp chắc chắn khó được chấp nhận. Ví dụ chỗ hội họp quan trọng không ai dùng cách nói lái.
(Theo Vannghedongbangsongcuulong)
_____________
Tiếng Việt khóc vì biển quảng cáo | for everyone |
Biển
quảng cáo của các cửa hàng thuê công ty quảng cáo làm, do người dân tự
chế có nội dung sai lỗi chính tả hoặc gây khó hiểu cho người xem vẫn
xuất hiện nhan nhản trên đường phố Hà Nội.
"Sửa ti chất lượng, tại nhà!"
Nếu như để ý một chút, người đi đường sẽ dễ dàng bắt gặp những biển quảng cáo kiểu này.
| |
Hai chỗ sửa xe đạp
|
Lỉnh
kỉnh đồ nghề bày biện trước cổng trường Học viện An Ninh (Thanh Xuân –
Hà Nội), bác Nguyễn Văn Trung tỏ vẻ ngập ngừng khi được hỏi về lỗi sai
trên tấm biển quảng cáo. Trên hai tấm nhôm được gắn với nhau một cách sơ
sài nổi lên hàng chữ đỏ được viết cẩu thả: “Xửa xe, lau dầu mỡ, cân
vành”, "Xửa xe, bơm vá xe máy – xe đạp”.
Bác Trung lau vội đôi tay còn bám đầy dầu mỡ nói như thanh minh: “Cái biển này tôi tự làm lấy, mọi người đi qua có mấy ai để ý tới nó đâu, nhìn vào đống đồ nghề này là đủ biết tôi làm gì rồi mà”.
Bác Trung lau vội đôi tay còn bám đầy dầu mỡ nói như thanh minh: “Cái biển này tôi tự làm lấy, mọi người đi qua có mấy ai để ý tới nó đâu, nhìn vào đống đồ nghề này là đủ biết tôi làm gì rồi mà”.
Có
một số trường hợp nhiều chữ cái trên biển quảng cáo biến mất để lại
những tình huống dở khóc dở cười. Trong một ngõ nhỏ của phố Huỳnh Thúc
Kháng, ai nhìn thấy tấm biển treo trên cột điện quảng cáo sửa chữa Tivi
làm cho nhiều người phải để mắt đến.
Chẳng
hiểu vì chủ tấm biển ấy đã đổi nghề, hay vì mưa nắng dãi dầu mà chữ vi
đã bị bong mất từ lâu, chỉ còn có chữ "Sửa chữa Ti… chất lượng, hiệu quả
tại nhà".
"Xay bột trẻ em"
Không
chỉ nhầm lẫn những lỗi chính tả như “tóc soăn”, “Thay bin đồng hồ”… ở
một số biển quảng cáo còn viết những câu không đầy đủ ngữ pháp gây nên
sự khó hiểu cho người đọc, chẳng hạn như “Tổ dịch vụ thương binh nặng” ,
“Xay bột trẻ em”, “Xí nghiệp sản xuất thương binh nặng”…
|
Trẻ em đi qua không dám nhìn
|
Cụm
từ “Xay bột trẻ em” kinh điển trong những câu chuyện tiếu lâm vẫn được
ghi trên quảng cáo của cửa hàng Quân Béo, 50 Châu Long – Ba Đình, ngay
gần trường Tiểu học Việt Nam – Cu Ba.
Tấm biển do làm từ lâu nên có chữ bị bong tróc nhưng mọi người vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng. Chị chủ quán cho biết: “Cửa hàng của chị làm dịch vụ này đã được hơn 6 năm, quán đặc biệt đông khách vào mùa hè”. Khi được hỏi về tấm biển quảng cáo của cửa hàng, chị cười nói: “Ở cửa hàng chị không chỉ xay bột trẻ em mà còn xay bột người lớn nữa”.
Có cùng cấu trúc ngôn ngữ với cụm từ “Xay bột trẻ em” là cụm từ “Tố dịch vụ thương binh nặng “ trên tấm biển quảng cáo đầu ngõ 31 Kim Mã – Ba Đình. Vì hàng dưới của tấm biển là “Nhận trông giữ và rửa xe ô tô 24/ 24” nên nghĩ mãi thì người đọc cũng lờ mờ hiểu theo nghĩa : đây là "Những dịch vụ do thương binh nặng làm, chứ không phải dịch vụ phục vụ thương binh nặng.
Những trường hợp sai lỗi chính tả ở những biển quảng cáo lớn thường không phải là do người dân tự làm mà chủ cửa hàng thuê các công ty quảng cáo. Lúc mới nhận về họ thường không để ý đến các lỗi sai đấy, nhưng khi phát hiện ra thì cũng chẳng mấy ai mặn mà với việc sửa lại cho đúng.
Chị Nguyễn Thị Mai (Thanh Xuân – Hà Nội) bày tỏ: “Người đi đường thường không chú ý đến những lỗi sai như thế, nhưng nếu nó xảy ra nhiều sẽ ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị và đến ngôn ngữ sử dụng hàng ngày của nhiều người”.
Tấm biển do làm từ lâu nên có chữ bị bong tróc nhưng mọi người vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng. Chị chủ quán cho biết: “Cửa hàng của chị làm dịch vụ này đã được hơn 6 năm, quán đặc biệt đông khách vào mùa hè”. Khi được hỏi về tấm biển quảng cáo của cửa hàng, chị cười nói: “Ở cửa hàng chị không chỉ xay bột trẻ em mà còn xay bột người lớn nữa”.
Có cùng cấu trúc ngôn ngữ với cụm từ “Xay bột trẻ em” là cụm từ “Tố dịch vụ thương binh nặng “ trên tấm biển quảng cáo đầu ngõ 31 Kim Mã – Ba Đình. Vì hàng dưới của tấm biển là “Nhận trông giữ và rửa xe ô tô 24/ 24” nên nghĩ mãi thì người đọc cũng lờ mờ hiểu theo nghĩa : đây là "Những dịch vụ do thương binh nặng làm, chứ không phải dịch vụ phục vụ thương binh nặng.
Những trường hợp sai lỗi chính tả ở những biển quảng cáo lớn thường không phải là do người dân tự làm mà chủ cửa hàng thuê các công ty quảng cáo. Lúc mới nhận về họ thường không để ý đến các lỗi sai đấy, nhưng khi phát hiện ra thì cũng chẳng mấy ai mặn mà với việc sửa lại cho đúng.
Chị Nguyễn Thị Mai (Thanh Xuân – Hà Nội) bày tỏ: “Người đi đường thường không chú ý đến những lỗi sai như thế, nhưng nếu nó xảy ra nhiều sẽ ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị và đến ngôn ngữ sử dụng hàng ngày của nhiều người”.
Theo Bee.net.vn
Thi ca trong ca dao | for everyone |
- Từ tấm bé hay ở mẫu giáo, chúng ta đã nhập tâm bằng những lời ru, chơi hát đồng dao, hay bài học thuộc lòng, được kết tụ bởi những lời thơ, nên nói đến thi ca, thì tất cả người Việt chúng ta luôn mang một tâm hồn Thi sĩ, thơ phú đến với chúng ta như là lẽ sống ý vị, cái ý vị có thể tự phát để sáng tạo, hay là tìm đến những nguồn thơ trong kho tàng vô tận của dân gian mà hưng phấn, cái hưng phấn trong thơ phú mà chính Khổng Tử đã nói: “Hưng Ư Thi".
Trong cuộc sống thường ngày nếu không có thi ca, thật đôi lúc chúng ta khó diễn đạt được tư tưởng bằng ngôn ngữ thông thường cho có ý vị, cho nên từ ngàn xưa Thi ca được coi trọng, mà chính Khổng-Tử lúc dạy con là Bá-Ngư cũng nói: "Bất học thi, vô dĩ ngôn" tức là Không học thi, không có lời để nói.
Thưa Quý-vị, thể theo lời đề nghị của ban tổ chức, hôm nay tôi được phép mạn đàm cùng Quý-vị, nhưng chắc là tôi chỉ miễn cưỡng nói cương, vì về thơ phú xem ra tôi chẳng có mấy năng khiếu. Bởi Thi Ca phải xuất phát từ cảm hứng, mà cái cảm hứng và mơ mộng trong tôi thường là hiếm, hiếm cái thú thưởng gió-trăng mây-ngàn để có thể trở thành thi sĩ, vì:
Là thi sĩ nghĩa là biết ru với gió
Mơ với trăng và du hồn cùng mây
Thơ nó không thể chỉ là lời đến với người, thơ là sản phẩm do trí tưởng tượng của con người làm nên, làm nên từ một thế giới ảo tưởng. Cái ảo tưởng tạo thành sáng tạo để sinh ra sản phẩm của giấc mơ.
Bởi vốn hiếm cái cảm hứng trong hưng phấn, nên tôi chỉ xin mạn đàm đôi chút cùng Qúy-vị về :
THI CA TRONG CA DAO
Ca Dao trong dân gian chưa ai có thể khẳng định được nó phát xuất từ bao giờ, chỉ biết là sưu tập đầu tiên về văn học dân gian là cuốn “Kinh Thi” của Trung Hoa, soạn cách đây 3000 năm.
Riêng tại Việt Nam, những sưu tập về tục ngữ ca dao cũng chỉ bắt đầu được biên soạn từ 200 năm nay. Cuốn đầu tiên là "Quốc phong giải trào" và "Nam Phong ngữ ngạn" thi của Trần Danh Án được biết đến nhiều nhất, sách được Ông soạn bằng chữ Nôm rồi dịch ra Hán văn, có ý đem ca dao Việt Nam sánh với Kinh Thi của Trung Hoa.
Mãi đến đầu thế kỷ XX chúng ta mới có những sưu tập về ca dao tục ngữ Việt Nam bằng chữ Quốc Ngữ như:
Nam Ngạn Trích Cẩm của Phạm Quang Sán
Gương Phong Tục của Đoàn Duy Bình
Tổ Quốc Túy Ngôn của Ng.H.Tiến/Trọng Thuật
Ngạn Ngữ Phong Giao của Nguyễn Can Mộng
Và Tục Ngữ Phong Giao của Nguyễn Văn Ngọc v.v
CA DAO là một thể văn vần, nó xuất phát từ Ngạn-Ngữ đến phong-dao thì thành điệu thành chương, có thể ngâm nga được, rồi các thể văn lục bát hay song thất cũng đã từ đó mà ra.
Thi văn trong ca dao là muôn mầu trong kho tàng vô tận, hôm nay tôi chỉ xin được mạn đàm về một khía cạnh nhỏ trong lãnh vực :
CA DAO VỀ TÌNH YÊU
Trai gái ngày nay, khi tỏ tình người ta nói thẳng dù trực tiếp hay qua thư tín, nhưng thuở xưa nó lãng mạn, bằng cách mượn cảnh, mượn tình, mà lung khởi bóng gió để tỏ tình, dù ở những nơi hội hè, nơi vắng vẻ hay tình cờ đối diện:
Có khi mượn cớ đường xa :
Đường xa thì thật là xa
Mượn mình làm mối cho ta một người
Một người mười chín đôi mươi
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình
Mượn ngay cảnh tang chế của người con gái:
Cô kia khăn trắng tang ai
Nhất tang cha mẹ thứ hai tang chồng
Tang chồng thì vứt khăn đi
Tang cha tang mẹ, ta thì tang chung
Hay mượn cảnh mây trời:
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
** *
Mượn Thi Ca để đến với nhau trong tình yêu nó vốn là lãng mạng ngọt ngào, nhưng đôi khi cũng gặp phải người con gái kênh kiệu cất mình lên như là:
Thân em như tấm lụa đào,
Còn anh chiếu rách bỏ rơi trệ đường
Khiến người con trai phải quyết liệt:
Lậy trời cho gió thổi lên
Cho manh chiếu rách phủ lên tấm lụa đào
Và nhắc nhở người con gái :
Thà là chiếu lác có đôi
Chẳng hơn chăn gấm lẻ loi một mình
Ngay cả khi gặp trắc trở, người ta cũng mượn cảnh mà lung khởi cho lời than vãn của mình:
Đôi ta như lúa đòng đòng,
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha
Đôi ta như chỉ xe ba
Thầy mẹ xe ít đôi ta xe nhiều
Hay cay đắng khi bị phụ tình:
Công anh đắp đập be bờ
Để thằng phải gió đem lờ đến đơm
Hay lời gói gém trong phận nghèo :
Họ giầu họ nghinh hôn giá thú
Hai đứa mình nghèo, dụ dỗ nhau đi
** *
Người con gái có thể vì kén chọn mà lỡ thì :
Cón duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình
Hay vì nghèo khó, nên đôi khi phải nhắm mắt đưa chân LẤY CHỒNG GIÀ để gởi tấm thân nơi sang giầu, dù lòng có cay đắng:
Còn duyên kén cá chọn canh
Hết duyên ếch đực cua kềnh cũng vơ
Còn duyên kén những trai tơ
Hết duyên, ông lão cũng vơ làm chồng.
Hay:
Vô duyên vô phúc múc phải anh chồng già
Ra đường người hỏi rằng cha hay chồng ?
Nói ra đau đớn trong lòng
Ấy là của nợ chứ có phải chồng em đâu
Việc chăn gối với người vợ bé bỏng cũng phức tạp, do sự phát triển cơ thể chưa chín mùi. Song cũng chỉ còn là chuyện chờ năm chờ tháng :
Lấy chồng từ thuở mười lăm
Chồng chê tôi bé chẳng nằm cùng tôi
Đến năm mười tám đôi mươi
Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường
Một rằng thương hai rằng thương
Có bốn chân giường gẫy một còn ba
Cảnh chồng già vợ trẻ, cảnh già chơi trống bỏi xem ra ngày nay các bô lão không cần phải giầu có, chỉ cần cái nhãn Việt kiều, cũng dễ cưới vợ trẻ, như các phú hộ thuở xưa:
Áo dài chẳng nệ quần thưa
Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm
Nếu các bô lão không may gặp phải lọai:
Gái đâu có gái lạ đời,
Chỉ còn thiếu một ông trời không chim
Hay loại từng
Chơi cho thủng trống long bồng
Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm
Chơi cho thủng trống long chiêng
Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng
Hoặc là:
Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng
Hễ ai có bạc thì bồng trên tay
Trăm năm trăm tuổi trăm chồng
Phải duyên thì lấy, chẳng ông tơ hồng nào xe
Để rồi ngay cả lúc chăn gối các nàng vẫn cứ:
Đêm nằm vuốt bụng thở dài
Thương chồng thì ít thương trai thì nhiều
Nhưng nếu có bị như thế, thì quả là các bô lão Việt kiều vẫn cứ là dại vì ham trống bỏi, dại vì:
Thân anh lỡ dại hai lần
Nhỏ mân vú mẹ, lớn mần vú em
Bây giờ anh đã già ên
Lại mê vú nhí, hóa ra ba lần
** *
Nếu các Lão Ông biết hưởng cái thú lấy vợ nhí, thì dĩ nhiên thiếu gì các Lão Bà cũng muốn cái thú hưởng thụ bên người chồng trẻ.
Dù ai có châm có biếm :
Trai tơ ới hỡi trai tơ
Đi đâu mà vội mà vơ nạ dòng ?
Vì quả vẫn có những cái tuyệt vời như:
Trai tơ vớ phải nạ dòng
Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu
Hay:
Nạ dòng vớ được trai tơ
Đêm nằm hí hửng như vơ được vàng
Dĩ nhiên là người chồng nhí cần phải tự an ủi:
Mạ úa cấy lúa chóng xanh
Nạ dòng chóng đẻ sao ta hững hờ
Vì:
Có phúc lấy được vợ già
Sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh
Còn hơn là:
Vô phúc lấy phải trẻ ranh
Nó ăn nó phá tan tành nó đi
Khi xưa tôi dự một đám cưới, cái đôi tân hôn trông thật ngộ nghĩnh, Chú rể 16 tuổi lại nhỏ con. Cô dâu 21 tuổi rất to con, lúc đó lại đang có thai nên tướng tá càng thêm đẫy đà, nên họ bị dị nghị như là con ong đực sánh đôi với trái bầu.
Chính tôi cũng cho đó là đôi tân hôn độc nhất vô nhị, nhưng xem ra thì ngay trong ca dao cũng đã có câu:
Em chớ thấy anh bé mà sầu
Kìa con ong bao nhiêu tuổi
Nó châm bầu, bầu thui !
Hay là:
Em ơi đừng thấy nhỏ mà khinh
Con thằn lằn bây lớn ôm cây cột đình tổ cha!
** *
Trong cuộc sống gia đình, sao tránh khỏi lúc bất hòa, nên Thi Ca cũng chuyên chở cả những lời răn:
Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa một đời chẳng khê
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì ?
Hay :
Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ tối nằm với ai
Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối chẳng ai cho nằm
THI CA ảnh hưởng đến cuộc sống trong muôn hình vạn trạng, nó còn đưa ta vào cả một kho tàng hài hước bóng-gió tục-thanh thanh-tục lẫn lộn như :
Đố tục giảng thanh về cái Điếu thuốc lào:
Lưng tròn đít lại bảnh bao
Mân mân mó mó đút ngay vào
Thủy hỏa tương giao sôi sình sịch
Âm dương nhị khí sướng làm sao
Đố tục giảng thanh về cái áo tơi
Lồm xồm hai mép những lông
Ở giữa có lỗ đàn ông chui vào
Chui vào rồi lại chui ra
Năm thì mười họa đàn bà mới chui
Đố tục giảng thanh về đôi Nhũ Hoa :
Cái gì vừa quả vừa hoa,
Con nít cũng thích ông già cũng mê
Ra đường dù thấy tràn trề
Ngắm nhìn thì được, mân mê thì đừng
Đố tục giảng thanh về cái chiếu
Xưa kia em trắng như ngà
Bởi chưng ngủ lắm em đà thâm đen
Lúc bẩn chàng đánh chàng đâm
Đến khi rửa sạch chàng nằm lên trên
Đố tục giảng thanh về cái cối say
Bốn chân chong chóng, hai bụng kề nhau
Cắm giữa phao câu, nghiến đi nghiến lại.
Đố tục giảng thanh về bánh dày
Bì bà, bí bạch chân cò
Bí ba bí bách, nằm co giữa giường
Đoạn rồi sờ vú sờ sườn
Sờ sao cho nó đỡ buồn mà thôi.
Đố tục giảng thanh về cảnh Mẹ cho con bú:
Một người nằm một người ngồi
Đút vào sướng lắm em ơi
Rút ra đánh choét, miệng cười toét toe
Dĩ nhiên trong lãnh vực Thi Ca còn là vô kể, vì thời giờ có hạn, xin dành thì giờ cho các Vị khác tiếp tục trao đổi, nhân buổi gặp gỡ rồng-mây hiếm hoi về thơ nhạc như hôm nay.
Thật là :
Mấy khi rồng gặp mây đây
Để rồng trao đổi với mây đôi lời
Nỡ mai rồng ngược mây xuôi
Biết bao giờ lại nối lời rồng mây
Đàm Văn Tiếu
Xin đừng làm tiếng Việt khó hiểu | for everyone |
Thực
tế hiện nay sử dụng tiếng Việt trong văn bản, báo chí, truyền hình,
sách vở có không ít trường hợp thiếu chính xác đã trở thành thói quen
tai hại làm mất đi sự chính xác, trong sáng của tiếng Việt.
Những từ người dân tộc, đồng bào dân tộc thì hiểu nghĩa như thế nào về từ dân tộc, “…những trường đóng ở vùng dân tộc được cộng thêm 0,5 vào điểm ưu tiên …”. Vùng dân tộc là vùng nào? Đáng lẽ phải ghi đầy đủ là vùng dân tộc thiểu số “… Các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa…”, đồng bào dân tộc miền núi là dân tộc nào, sao không viết là đồng bào ở miền núi?
“…Học sinh người dân tộc
không quen với những lời chúc hoa mỹ đến như thế...”, “…chúng ta rất
day dứt khi hàng vạn thầy cô giáo phải chấp nhận sự không công bằng để
đem cái chữ, ánh sáng cuộc đời cho các em học sinh người dân tộc,
các gia đình có hoàn cảnh hết sức khó khăn…”, người dân tộc là người
gì? “Dân tộc” là danh từ chung chứ đâu là danh từ riêng mà lại viết như
thế không khác gì là danh từ riêng. Thậm chí có tựa đề một bài báo “Bí
thư Thành Đoàn TP.HCM phát học bổng cho học sinh dân tộc Gia Lai”, chẳng
lẽ là thêm một dân tộc mới phát hiện ngoài 54 dân tộc hiện có?
Từ thiếu đói như “không để nhân dân vùng lũ bị thiếu đói” hiểu nghĩa như thế nào về từ thiếu đói?
Theo từ điển, từ “thiếu” có nghĩa là không đủ, hụt, từ “đói” có nghĩa
cần ăn, chưa được ăn đủ, như vậy ghép hai từ lại thì sẽ có nghĩa là gì?
Đáng lẽ chỉ nói là “thiếu ăn” hoặc “đói” thì có dễ hiểu hơn không?
Từ lãi suất thường dùng như “gửi tiền nhận lãi suất”, “cho vay không lãi suất” là sự lẫn lộn “lãi suất” với “lãi”. “Lãi
suất” là tỷ lệ lãi, là số tương đối, lãi là tiền lời là số tuyệt đối,
nên gửi tiền “nhận lãi” chứ không thể “nhận lãi suất”, hay “cho vay lãi
suất bằng 0”.
Cách ghi từ Ông, Bà, Anh, Cô, học vị trước tên của một người cũng rất lộn xộn, người không có học vị thì trước tên ghi là Ông Bùi Văn A, người có học vị lại chỉ ghi TS Nguyễn Văn B, ghi học vị trước tên một người có học vị cao thì ghi, thường là thạc sĩ trở lên, như ThS Nguyễn Văn C, khoa Tài chính…” (không có Ông), nhưng người có học vị cử nhân thì không ghi học vị, lại ghi là “Ông Trần Văn D, giảng viên khoa Ngân hàng…”
phải chăng do sự háo danh mà ra? Hay từ ông, bà sử dụng trước tên một
người để chỉ người đáng kính trọng, nhưng ai làm công tác đoàn dù lớn
hay nhỏ tuổi cũng đều dùng từ “anh”, “chị” chứ không dùng ông, bà để phù
hợp tuổi trẻ chăng?
Đặt
tên một đơn vị, tên thường chỉ cho biết công việc chuyên môn của đơn vị
đó, nhưng có trường hợp cũng không hiểu nổi. Bộ GD-ĐT có Vụ Giáo dục Dân tộc, chức năng vụ này “giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục dân tộc...”.
Không hiểu quản lý nhà nước về giáo dục dân tộc là quản lý nội dung gì?
Phòng Quản trị - thiết bị trong trường học thì đúng chức năng là quản
lý thiết bị phục vụ cho giảng dạy, không phải hai chức năng, hay cần
phải giải thích nội dung quản trị cái gì mà cần phải có gạch nối…
Có
thể còn nhiều ví dụ nhưng những cách sử dụng tiếng Việt đơn cử như trên
đã làm cho tiếng Việt thêm phức tạp, khó hiểu và ngày càng phổ biến,
trở thành thói quen sẽ để lại tai hại cho những thế hệ mai sau. Lỗi này
có lẽ có cả trong dạy, học và sự cẩu thả trong tác phẩm báo chí, do đó,
cần phải thận trọng để đảm bảo sự trong sáng và dễ hiểu cho tiếng Việt
của chúng ta.
- Bùi Văn Trường
Từ chỉ giống trong tiếng Việt | for everyone |
- Đứa bé 4 tuổi hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, sao gọi là gà trống mà không gọi là gà đực?
Mẹ ngẩng ra, gọi người cha cầu cứu. Người cha giải thích:
- Con vật nào thuộc loại gia cầm (2 chân) thì gọi là trống - mái, còn thuộc gia súc (4 chân) thì đực - cái....
Đứa bé:
- Ba ơi, con vịt có 2 chân sao gọi là vịt đực... con cá không có chân sao gọi cá trống?
Cha mẹ nó gọi điện thoại nhờ DCT tra cứu trên mạng. Tìm, xem và càng rối...
______________
Một anh bạn người nước ngoài vào chợ Hôm mua thực phẩm đã nói với người bán gà rằng: "Bà bán cho tôi một cái gà đực". Thế là mấy người bán hàng cạnh đó cười rũ ra. Bà bán gà liền chỉnh lại: "Không phải là "cái gà đực" mà là "con gà sống" chứ". Anh bạn nước ngoài ngẩn ra một lúc rồi lại nói: "Tôi muốn mua gà chết chứ không mua gà sống". Bà bán hàng lại bảo: "Thế thì phải gọi là "gà mổ sẵn" chứ không phải là "gà chết...". Câu chuyện mua gà của anh bạn nước ngoài nọ kết thúc ở đấy. Bởi vì, cuối cùng anh vẫn mua được "gà đực" (tức gà sống) và là "gà chết" (tức "gà mổ sẵn).
Việc dùng từ chỉ giống trong tiếng Việt thật là phức tạp. Rõ ràng là giống đực mà không ai nói "gà đực", trong khi lại gọi "vịt đực", "trâu đực", "bò đực", "chó đực"... Rõ ràng là giống cái mà không ai nói "gà cái", trong khi lại gọi "vịt cái", "trâu cái", "bò cái" "cáo cái"... Riêng gà, chim thì thay vì dùng "đực, cái" người ta gọi là "sống" (hay "trống") và "mái". Còn lợn là động vật có vú như trâu, bò, chó... lại có thêm một cách gọi nữa là "giống (đực)" và "nái" (cái). Đặc biệt hơn, nếu con "nái" đã đẻ quá nhiều hoặc chỉ được nuôi để sinh sản thì người ta gọi là "sề" (hay "nái sề"). Cũng có trường hợp dùng "nái" với trâu cái, nhưng rất hiếm; chẳng hạn trong tục ngữ có câu "Ruộng sâu trâu nái, con gái đầu lòng".
Việc sử dụng từ chỉ giống (hay giới tính) đối với danh từ chỉ người trong tiếng Việt lại càng phức tạp. Trong khi giảng dạy về phạm trù giống (ngữ pháp) của các ngôn ngữ trên thế giới, chúng tôi nhận thấy người học thường có sự nhầm lẫn giữa giống - là một loại phạm trù ngữ pháp, với giống - thực chất là giới tính của người và động vật. Giống ngữ pháp gắn liền với hình thức của từ và thường được phân biệt thành bộ đôi là "đực và cái", hoặc thành bộ ba là "đực, cái và trung". Danh từ trong tiếng Pháp có hai giống, danh từ trong tiếng Nga có ba giống. Đối với các ngôn ngữ có phạm trù giống, tất cả các danh từ đều phải thuộc về một giống nhất định, bất kể danh từ đó là danh từ chỉ động vật hay bất động vật. Chính vì vậy, có những trường hợp: cùng là danh từ chỉ bất động vật nhưng danh từ này lại là là giống cái, danh từ kia lại là giống đực; hoặc có trường hợp: một danh từ chỉ động vật có giống ngữ pháp đối lập với giống của động vật trong thực tế.
Danh từ trong tiếng Việt không có giống ngữ pháp. Vì thế, vấn đề "giống" ở tiếng Việt chỉ còn là chuyện giới tính của người và động vật mà thôi. Tuy nhiên, vấn đề cần bàn chính là việc cấu tạo giống ở danh từ chỉ người và danh từ chỉ động vật lại không giống nhau.
Đối với danh từ chỉ động vật, giống được thể hiện qua một kiểu kết cấu duy nhất là:
"Danh từ chỉ loài + yếu tố chỉ giống (đực, cái)"
- Thí dụ:
"Gà trống (sống) - gà mái"
"Trâu đực - trâu cái (nái)"
"Lợn giống - lợn nái"...
Các danh từ chỉ người trong quan hệ thân tộc phần lớn gắn với giới tính. Điều đó có nghĩa là: yếu tố giới tính nằm ngay trong nghĩa từ vựng của danh từ chỉ người.
Thí dụ:
Ông, cha, thầy, tía, chú, cậu, anh... là các từ có ý nghĩa giới tính nam;
Bà, mẹ, u, má, cô, dì, thím, chị... là các từ có ý nghĩa giới tính nữ.
Khi sử dụng chúng, người ta không cần phải kèm yếu tố chỉ giới tính nữa.
Trường hợp "anh trai" và "chị gái" là một ngoại lệ. Ngoài ý nghĩa giới tính chúng còn có ý nghĩa chỉ quan hệ "ruột thịt". Người ta gọi anh ruột là "anh trai", chị ruột là "chị gái"; chứ không gọi anh họ, chị họ bằng cách gọi đó.
Các danh từ: cụ, bác, cháu, con, em... không mang ý nghĩa giới tính xác định, vì thế lại có khả năng tham gia kết hợp để mang giới tính nam hoặc nữ. Để cấu tạo giới tính cho các danh từ này không gặp khó khăn gì. Người ta chỉ cần đặt các cặp từ "ông - bà" hoặc "trai - gái" vào ngay sau chúng:
Cụ ông - cụ bà
Bác trai - bác gái
Cháu trai - cháu gái
Con trai - Con gái
Em trai - em gái
Ngoại lệ, từ "bác" có thể kết hợp cả "trai - gái" và cả với "ông - bà" để tạo ra hai biến thể:
Bác trai - bác gái
và bác ông - bác bà (xuất hiện ở phương ngữ miền trung).
Có điều đáng chú ý là: khi cấu tạo giới tính cho một số danh từ chỉ người trong tiếng Việt, ta lại dùng những cặp từ vốn có giới tính như cặp "ông - bà" "nam - nữ", "trai - gái" để kết hợp. Như vậy, những cặp từ này là "đa chức năng" chứ không phải là những danh từ chỉ người thuần túy.
Các danh từ chỉ người trong quan hệ xã hội hoặc các danh từ chỉ nghề nghiệp chức vụ, chức danh của tiếng Việt vì không có ý nghĩa giới tính tự thân, nên việc cấu tạo giới tính cũng chỉ đơn giản bằng cách duy nhất là kết hợp từ chỉ giới tính với chính những danh từ trên.
Tuy nhiên, nhìn chung, việc lựa chọn "ông - bà", "nam - nữ" hay "trai - gái" để kết hợp với một từ cụ thể nào lại không hoàn toàn giống nhau.
Có những danh từ chỉ kết hợp với một trong các cặp nêu trên.
Chẳng hạn danh từ giám đốc có thể dùng với cặp "nam - nữ" chứ không dùng với cặp "trai - gái". Người ta dùng:
Giám đốc nam - giám đốc nữ
chứ không dùng:
Giám đốc trai - giám đốc gái
Nhưng lại có những danh từ vừa kết hợp được với cặp "nam - nữ" (theo trật tự Hán Việt) kiểu:
Nam dân quân - nữ dân quân
Nam sinh viên - nữ sinh viên
vừa kết hợp được với cặp "trai - gái" (theo trật tự thuần Việt) kiểu:
Dân quân trai - dân quân gái
Sinh viên trai - sinh viên gái
Xin được nói thêm về một nghề trong truyền thống luôn gắn với ý nghĩa "giới tính nam" - đó là nghề "thầy giáo". Với nghề nghiệp này, người Việt chúng ta đã phải dùng một từ đối lập về giới tính - từ "cô" để chỉ người dạy học là nữ - "cô giáo". Các từ Hán Việt khác đồng nghĩa với "cô giáo" hoặc "thầy giáo" vẫn được cấu tạo giới tính bằng quy tắc kết hợp từ chỉ giới tính "nữ hoặc nam" với chúng:
Nữ giáo viên - nam giáo viên
Nữ giảng viên - nam giảng viên.
Với một cách nhìn khái quát, ta có thể nhận thấy: giống và giới tính của danh từ chỉ người và động vật trong tiếng Việt là một vấn đề không đơn giản. Một trong những lý do của hiện tượng này là vì có những danh từ tự thân mang ý nghĩa giới tính, còn một số danh từ khác lại không. Hơn nữa, riêng với các danh từ chỉ người không tự thân mang nghĩa giới tính thì việc cấu tạo giới tính cũng không thuần nhất mà linh hoạt và còn được giải thích bằng ngữ nghĩa của chúng nữa.
Nguồn: Phan Hồng Liên
______
Nguyễn Hưng Quốc
Cuộc đảo chánh trong một chữ
Đọc bài ca dao "Con cò mà đi ăn đêm", tôi cứ hay bị khựng lại ở chữ "con" trong "con cò". Ừ, thì con cò. Cũng giống như con bò, con trâu, con mèo, con chó. Ngỡ như không có gì đặc biệt. Thế nhưng tôi lại không thể không nhớ đến những bài ca dao khác trong đó, cò lại được gọi là "cái", "cái cò". Tại sao lúc thì "con", lúc thì "cái"? Mà số lượng "cái cò" không phải ít. Có người còn làm thống kê được, trong kho tàng ca dao còn lại đến nay, có đến 19 bài bắt đầu bằng "cái cò" trong khi chỉ có 14 bài bắt đầu bằng "con cò". Tần số xuất hiện của từ "cái cò" cao hơn hẳn. [1] Tại sao?
Hiện nay, hầu như tất cả các nhà ngữ pháp đều cho "con" và "cái" là danh từ chỉ loại, do đó, thỉnh thoảng còn được gọi là loại từ (classifier), với hai chức năng chính là nhằm chỉ đơn vị tự nhiên của sự vật và nhằm cá thể hoá sự vật ấy. Với chức năng thứ nhất, "cái" đứng trước những danh từ chỉ vật vô sinh như cái bàn, cái ghế, cái nhà, cái xe, v.v...; trong khi chữ "con" lại đứng trước những danh từ chỉ vật hữu sinh như con mèo, con chó, con gà, con vịt, v.v... Với chức năng thứ hai, "cái" hay "con" có tác dụng làm cho ý nghĩa của sự vật phía sau trở thành cụ thể. [2]
Ở chức năng thứ nhất, có hai ngoại lệ: một, thỉnh thoảng trước một số danh từ chỉ vật vô sinh nhưng chứa đựng ý niệm vận động, người ta cũng dùng chữ "con" như con mắt, con tim, con đường, con sông, con dao, v.v...; hai, thỉnh thoảng trước một số động vật như cò, vạc, nông, bống, tôm, trai và kiến, người ta cũng có thể dùng chữ "cái", như trong các câu ca dao:
Cái cò, cái vạc, cái nông
Sao mày ăn lúa nhà ông, hỡi cò?
- Không, không, tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi!
hay:
Cái bống đi chợ Cầu Canh
Cái tôm đi trước củ hành đi sau
Có thể nói ngoại lệ thứ nhất, từ vô sinh biến thành hữu sinh, là những trường hợp thăng cấp; ngược lại, ngoại lệ thứ hai, từ hữu sinh mà biến thành vô sinh, rõ ràng là một sự giáng cấp. Thế nhưng tại sao lại có sự giáng cấp như thế? Tại sao chỉ có một số loài vật bị giáng cấp, còn những loài vật khác thì không? Con cò, con vạc, con nông, con bống, con tôm, con trai, con ve và con kiến... có tội tình mà bị truất phế ra khỏi thế giới hữu sinh? [3]
Theo tôi, những giống vật ấy là những nạn nhân ngẫu nhiên của một cuộc đảo chánh âm thầm trong lãnh vực ngôn ngữ.
Hình như chưa ai nói đến một cuộc đảo chánh như thế thì phải.
*
Chúng ta biết ngôn ngữ là một sinh thể biến động liên tục.
Về phương diện từ vựng, có ba hình thức biến động chính: thứ nhất, một số từ "chết" đi; thứ hai, một số từ mới được ra đời; và thứ ba, một số từ vẫn tiếp tục sống nhưng bị thay hình đổi dạng, hoặc ở ngữ âm hoặc ở ngữ nghĩa, hoặc ở cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa.
Trong tiếng Việt, hình thức thay đổi trong ngữ âm khá phổ biến. Ví dụ, chữ "nhỏ nhẹ" có lúc biến thành "nhỏ nhẻ" (ăn uống nhỏ nhẻ); "nền nếp" biến thành "nề nếp"; "dại dốt" (dại và dốt) thành "dại dột"; "phanh khui" thành "phanh phui"; "phong thanh" thành "phong phanh"; "nịnh hót" (nịnh và hót) thành "nịnh nọt", "yếu nớt" (nớt là sinh đẻ thiếu tháng) thành "yếu ớt"; "chốc mào" (loại chim có mào ở chốc, hay trốc, có nghĩa là đầu) thành "chào mào", "chấp nệ" thành "chấp nê", "ngọt" có khi biến thành "ngót" (canh nấu ngót), "mặn" có khi biến thành "mẳn" (cá kho mẳn), "bắc" có khi biến thành "bấc" (gió bấc), "nam" biến thành "nồm" (gió nồm) hay "nôm" (chữ Nôm); "đã" có khi biến thành "đà" (Trong Truyện Kiều có 265 chữ "đã" và 35 chữ "đà" như: "Nàng đà biết đến ta chăng?" hay "Thuyền tình vừa ghé tới nơi / Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ.) Chữ "chẳng", trong câu phủ định là "chẳng" (chẳng có), nhưng trong câu nghi vấn lại biến thành "chăng" (có chăng?). Chữ "chưa", dùng trong cả câu phủ định (chưa có) lẫn câu nghi vấn (có chưa?), nhưng trong trường hợp phủ định, "chưa" có thể biến thành "chửa" (Ca dao: "Ngày đi lúa chửa đơm bông / Ngày về em đã con bồng con mang"), v.v… [4]
Cần lưu ý là việc biến âm ít nhiều dẫn đến việc biến nghĩa. Chẳng hạn, chữ "thật" và chữ "thực" là một; "sự thực" hay "sự thật" đều giống nhau, "thực ra" hay "thật ra" cũng giống nhau, nhưng phân tích chi li ra, ý nghĩa hai từ có khi lại khác nhau, như đâu đó, có người đã phân tích: "thực" là cái gì không phải hư ảo, trong khi "thật" lại là cái gì không phải là giả. Cảnh thực khác với cảnh thật. Nói cảnh thực là nhằm khẳng định nó không phải là trong mơ; nói cảnh thật là khẳng định nó không phải là cảnh nhân tạo.
Có khi hình thức ngữ âm vẫn y nguyên mà ý nghĩa lại thay đổi. Ngày trước, chữ "ân ái" có nghĩa là tình yêu, được lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, với âm hưởng thanh tao và dịu dàng. Sau này, nó lại nghiêng nặng về ý nghĩa chỉ những hoạt động sinh lý hơn là những ràng buộc về tình cảm. Cũng vậy, ngày xưa, chữ "chơi" có âm hưởng hiền lành biết bao; bây giờ, nó lại gợi ra một điều gì hơi... tục. Chính vì thế, tôi đã không nín được cười khi, mới đây, đọc lại bài thơ "Tuổi xuân" của Đông Hồ, trong đó có mấy câu:
"Anh ơi! Em muốn chơi,
Non nước chốn này vui..."
Điều đáng chú ý là có khi sự thay đổi diễn ra không đồng đều giữa các địa phương, từ đó, có thể dẫn đến sự hiểu lầm giữa người miền này và người miền nọ. Ví dụ, chữ "quay quắt". Trong khi ở miền Nam trước đây cũng như ở hải ngoại hiện nay, chúng ta đều hiểu "quay quắt" theo cái nghĩa đã được ghi trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳønh Tịnh Của là "xây tròn, nhào lộn, rối rắm không yên, sự thể khốn đốn"; ở miền Bắc, trong Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân (biên soạn năm 1974; in lần thứ ba năm 1994), "quay quắt" được định nghĩa là "xảo trá, hay lừa gạt". Thử tưởng tượng một tình huống cực kỳ nguy hiểm: một thanh niên ở miền Nam (hay ở hải ngoại) viết thư cho một cô gái miền Bắc, trong đó, có câu: "Anh nhớ em quay quắt"; cô gái liền nghĩ đến hai khả năng: hoặc anh thanh niên đang tự nhận là đang giả vờ nhớ (chữ "quay quắt" bổ nghĩa cho chữ "nhớ"), hoặc anh đang mắng cô ấy là một kẻ xảo trá (chữ "quay quắt" bổ nghĩa cho "em")! Khả năng nào cũng có thể làm tình yêu tan nát như chơi! [5]
Những sự thay đổi vừa nêu, dù sao, cũng chỉ là những sự thay đổi. Chúng không phải là đảo chánh. Như trong hai chữ "cái" và "con".
*
Trước hết là "đảo chánh" về từ loại. Nên nhớ là chữ "cái" và "con" với tư cách là một loại từ chỉ là một hiện tượng khá mới mẻ trong lịch sử tiếng Việt. Ngay trong Truyện Kiều, được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỷ 19, tần số xuất hiện của chữ "con" với tư cách là loại từ rất hiếm, chỉ có khoảng hơn 20 lần trong tổng số 3254 câu thơ. Chữ "cái" lại càng hiếm, chỉ có mỗi một lần trong câu "Con ong cái kiến kêu gì được oan". [6]
Nếu đi ngược thời gian, đọc lại thơ Nôm của Nguyễn Trãi vào đầu thế kỷ 15, chúng ta sẽ thấy cách dùng chữ "cái" và chữ "con" còn rất lộn xộn và tuỳ tiện. Nhà thơ Xuân Diệu có lần khen ngợi nức nở cách dùng chữ "cái" trong hai câu thơ của Nguyễn Trãi:
Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc
Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh.
Theo ông, cách nói "cái râu bạc" của Nguyễn Trãi rất lạ. Nó thể hiện hết cái tinh thần cứng cỏi, ngang ngạnh, uy vũ bất năng khuất của Nguyễn Trãi. [7] Tuy nhiên, theo tôi, hình như Xuân Diệu tán hơi quá. Sự thực, vào thế kỷ 15, Nguyễn Trãi chưa hề có sự phân biệt rõ ràng giữa "con" và "cái" như chúng ta hiện nay. Lúc ấy, ông gọi đứa đầy tớ là "con đòi", nhưng lại gọi con ngựa là "bà ngựa" như trong câu:
Con đòi trốn, dường ai quyến
Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
("Thủ vĩ ngâm") [8]
Bây giờ chúng ta gọi là "cái lều", thời ấy Nguyễn Trãi gọi là "con lều":
Con lều mòn mọn cách hồng trần
Vướng vất tư mùa những bạn thân
("Mạn thuật 2")
Ông gọi cái am để ở là "con am":
Bẻ cái trúc, hòng phân suối
Quét con am để chứa mây
("Mạn thuật 6")
hay:
Thiêu hương, đọc sách, quét con am
Chẳng bụt, chẳng tiên, ắt chẳng phàm.
("Tự thán, 27")
Trong khi đó, con chim đỗ quyên thì lại được gọi là "cái" "cái đỗ quyên":
Vì ai cho cái đỗ quyên kêu
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
("Cảnh hè")
Thành ra, chữ "cái" và "con" với tư cách loại từ chỉ là một sản phẩm khá mới mẻ.
Nguyên thuỷ, ngày xưa, "cái" và "con" vốn là danh từ. Ý nghĩa cổ nhất của "cái" có lẽ là mẹ. Vào thế kỷ thứ 9, khi nhà anh hùng Phùng Hưng qua đời, dân chúng suy tôn ông là "Bố Cái đại vương". Chữ "cái" ấy có nghĩa là mẹ. "Cái" với nghĩa là mẹ còn xuất hiện trong câu tục ngữ "con dại cái mang" và có lẽ, cả trong câu ca dao "Nàng về nuôi cái cùng con / Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng."
"Cái" là mẹ. Mà mẹ, ở Việt Nam, vốn là nơi dấu vết mẫu hệ còn khá đậm, rất được kính trọng. Chính vì thế, từ "cái" có thêm một số nghĩa phái sinh khác, chỉ những gì lớn lao, to tát và chính yếu, như trong các từ: sông cái, đường cái, cột cái, ngón tay cái, đũa cái, rễ cái, sổ cái, v.v... Từ đó, nó lại nảy sinh ý nghĩa là làm chủ, người quán xuyến, chịu trách nhiệm điều hành và quản lý, như trong chữ "cầm cái", "nhà cái", "bắt cái" hay "hốt cái" mà những người đánh bạc và đánh bài thường dùng. Rồi nó lại chuyển nghĩa sang phần chính, phần đặc, phần ngon nhất trong thức ăn, như tục ngữ có câu "khôn ăn cái, dại ăn nước".
Tất cả những sự chuyển nghĩa trên đều là những sự chuyển nghĩa theo hướng tích cực, dưới ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ. Nhưng bên cạnh đó, trong chữ "cái" còn có một hướng chuyển nghĩa khác tiêu cực hơn và cũng triệt để hơn mà tôi muốn xem như một cuộc "đảo chánh" trong lãnh vực ngôn ngữ. Cuộc "đảo chánh" này, tôi đoán, có lẽ diễn ra cùng lúc với việc bành trướng của Nho giáo, trong đó có cả tư tưởng trọng nam khinh nữ với những câu nói tiêu biểu như "nhất nam viết hữu thập nữ viết vô", hay "một trăm đứa con gái không bằng hòn dái đứa con trai". Trong tinh thần như vậy, người ta không còn nhìn chữ "cái" như một cái gì lớn lao nữa mà chỉ còn như một phái tính. "Cái" khác với "đực". Thế thôi.
Trong ý nghĩa chỉ giống (sex), "cái" chỉ có ý nghĩa thuần sinh học, do đó, không còn xứng hợp với con người vốn không phải chỉ là một sinh vật mà còn là một sinh vật có văn hoá. Vì thế, người ta chỉ dùng chữ "cái" để chỉ một phái tính chung chung. Còn với người, người ta gọi lệch chữ "cái" đi một chút thành chữ "gái"; với loài chim, loài cá, hay gia cầm, chữ "cái" lại được gọi lệch là "mái"; với heo, một loại gia súc phổ biến và là nguồn lợi nhuận chính của các gia đình Việt Nam thì "cái" lại thành ra "nái". Còn lại, tất cả các giống vật khác, ít thân thuộc hơn, thì vẫn được giữ nguyên là "cái". Như vậy, giữa chữ "cái" và những biến âm của nó, như "nái", "mái" hay "gái" đã có sự phân biệt. Tuy đồng nghĩa, nhưng chúng không hoàn toàn bình đẳng với nhau.
Hơn nữa, trong tương quan với giống đực, "cái" là giống yếu. Do đó, dần dần có một sự giáng cấp trong ý nghĩa của chữ "cái". Xưa, "cái" là mẹ; sau, "cái" là con (trong "con cái"); sau nữa, là con gái (con Hoa, con Lựu... còn được gọi là cái Hoa, cái Lựu...). Xưa, "cái" là lớn, là chính; sau, "cái" là nhỏ, là phụ. Xưa, sông cái là sông chính, sông lớn; sau, vào chinh phục miền Nam, người ta lại gọi những con rạch hoặc những nhánh sông nhỏ là "cái": Cái Bè, Cái Mơn, Cái Thia, Cái Sắn, Cái Trôm, Cái Tre, Cái Cùng, Cái Cạn, v.v... [9]
*
Một hậu quả khác của cuộc đảo chính trong ý nghĩa của từ "cái" là sự xuất hiện của từ "cái" như một từ chỉ xuất với ý nghĩa cảm thán hay chê trách, xỉa xói, bới móc, kiểu "cái thằng cha nọ" hay "cái con mẹ kia". Có thể nói, từ tư cách danh từ chuyển qua tư cách loại từ, "cái" là một kẻ bị truất phế; từ tư cách loại từ chuyển qua tư cách một từ chỉ xuất, "cái" trở thành một thứ vũ khí để truất phế một người hay một sự vật nào đó. Nói "Nhà thơ mà anh gặp sáng nay..." khác hẳn với cách nói "Cái ông nhà thơ mà anh gặp sáng nay..." Khác, chủ yếu ở tình cảm của người nói: ở cách trước, có chút gì như tôn kính; ở cách sau, có chút gì như rẻ rúng. Các nhà thơ đã sớm biết tận dụng giá trị biểu cảm mới mẻ này. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng đến bảy lần chữ "cái" với ý nghĩa than oán, chẳng hạn trong câu:
Rằng: hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
hay:
Chém cha cái số hoa đào
Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi.
Để ý đến tính chất cảm thán ấy của chữ "cái", chúng ta dễ nắm bắt tâm trạng uất hận, đau đớn, day dứt, dằn vặt của Hồ Xuân Hương trong hai câu thơ nổi tiếng này:
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
"Hồng nhan" là một từ đẹp, nhưng khi đi liền sau chữ "cái", nó lại biến thành một sự bẽ bàng. Nhất là khi "cái hồng nhan" ấy lại cứ trơ ra giữa trời đất.
May mắn là chữ "cái" không bị đẩy đến tận cùng sự trầm luân. Có lẽ, vào khoảng cuối thế kỷ 19 hay đầu thế kỷ 20, khi tiếp xúc nhiều với văn hoá Tây phương, một phần do nhu cầu dịch thuật, một phần do nhu cầu tự diễn đạt, người Việt Nam đã phải tìm cách tạo ra những từ mới để chỉ những khái niệm trừu tượng. Biện pháp tạo từ chủ yếu là dùng từ tố "cái" cộng với một tính từ hay danh từ nào đó, ví dụ: cái tài, cái tình, cái thiện, cái ác, cái đẹp, cái xấu, cái cao cả, v.v... Nhưng tại sao người ta lại nghĩ đến việc dùng chữ "cái"? Trước, trong những kết hợp tương tự, cha ông chúng ta vốn dùng chữ "chữ", kiểu như Nguyễn Du viết, trong Truyện Kiều: "Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau", hay Nguyễn Công Trứ viết, trong một bài hát nói, "Chữ tình là chữ chi chi". Khi chuyển từ chữ "chữ" qua chữ "cái", hình như người ta chỉ giữ lại mấy từ cũ, chủ yếu là những từ liên quan đến các phạm trù đạo đức ngày xưa: "chữ trinh", chữ "trung", "chữ hiếu" và thỉnh thoảng, "chữ hoà".
Khó, nếu không muốn nói là không thể biết được tại sao người ta quyết định bỏ chữ "chữ" đã khá quen thuộc thời bấy giờ để thế vào đó bằng chữ "cái" và ai là người đầu tiên đi đến quyết định ấy. Dù vậy, bất kể vì lý do gì, sáng kiến dùng chữ "cái" thay cho chữ "chữ" trong những kiểu tạo từ vừa nêu trên cũng đã cứu vớt được chữ "cái". Trong kết hợp mới mẻ để biểu đạt những khái niệm trừu tượng, chữ "cái" xem chừng có vẻ sang trọng hẳn, chứ không còn cái vẻ yếu ớt, lam lũ, nhếch nhác và buồn thảm như trước.
*
Như vậy, đứng trước một chữ đơn giản như chữ "cái", cách cảm thụ của người Việt Nam thuộc những thời đại khác nhau sẽ khác hẳn nhau. Ở trên, tôi có viết là Xuân Diệu tán hơi quá khi bình chữ "cái" trong câu thơ "Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc" của Nguyễn Trãi. Viết thế, tôi không hề có ý chê trách Xuân Diệu. Lỗi đâu phải ở ông. Nếu ông sinh sớm hơn, khi chữ "cái" chưa có cái vẻ ít nhiều sang trọng như hiện nay, nếu ông sinh vào cái thời người Việt Nam ưa dùng chữ "cái" để cực tả những gì nhỏ nhoi và tội nghiệp như lúc cha ông chúng ta dùng chữ "cái" để chỉ con cò, con bống, con tôm, con kiến... biết đâu ông lại thấy trong câu thơ của Nguyễn Trãi có cái gì ngùi ngùi, xót xa, thương cho thân phận già nua và cô thế của mình.
Biết đâu được.
1999
Ðã in trong cuốn Văn Học Việt Nam, từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại, Văn Nghệ xuất bản tại California, 2000. Lần này, tác giả có sửa chữa một ít, chủ yếu là bỏ bớt một số câu để tránh trùng lặp với các bài về tiếng Việt đã đăng trên talawas.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Xem Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, tr. 204.
[2]Ví dụ, nói "nhà tôi", người ta có thể hiểu theo hai nghĩa khác nhau, một là vợ hay chồng của tôi; hai là căn nhà do tôi sở hữu; nhưng nếu nói "cái nhà tôi" thì không thể có khả năng gây hiểu lầm, bởi vì, khi thêm chữ "cái" phía trước, cái nhà ấy phải là một căn nhà hay một ngôi nhà cụ thể. Cũng vậy, nói "ông ấy có mèo", người ta có thể hiểu lầm ý này ý nọ, nhưng nói "ông ấy có con mèo" thì con mèo ấy nhất định phải là con mèo chứ không thể là một thứ con gì khác được.
[3]Trường hợp con hạc bị gọi là "cái" trong câu thơ của Tản Đà "Cái hạc bay lên vút tận trời / Trời đất từ đây xa cách mãi" (bài "Tống biệt") chỉ là một sự "giáng cấp" tạm thời: con hạc không được tả như một loài chim, hơn nữa, một loài chim quý, mà chỉ như một phương tiện chuyên chở đưa Lưu Thần và Nguyễn Triệu từ cõi tiên về lại cõi trần. Trong trường hợp này, thay "cái hạc" thành "con hạc", người ta dễ ngỡ nó chỉ là một con hạc nào đó tình cờ bay ngang qua mà thôi.
[4]Xem thêm Lê Trung Hoa, "Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm", in trong cuốn Những vấn đề văn hoá, văn học và ngôn ngữ học (nhiều tác giả), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999: 211-225.
[5]May mà gần đây, trong Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (1997), chữ "quay quắt", ngoài ý nghĩa chính là "xảo trá, tráo trở, hay lừa lọc", còn có một ý nghĩa phụ, được xem là ý nghĩa địa phương, là "ở mức độ đứng ngồi không yên".
[6]Xem Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, do Phan Ngọc hiệu đính, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1989.
[7]Xuân Diệu (1987), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập 1, nxb Văn Học, Hà Nội, tr. 61-2.
[8] Tất cả những câu thơ của Nguyễn Trãi từ đây xuống dưới đều được trích từ cuốn Nguyễn Trãi toàn tập do Viện Sử học biên soạn, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1976.
[9]Lê Trung Hoa, "Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc thành tố chung "Cái" trong địa danh Nam Bộ", in trong Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á, Viện Ngôn Ngữ Học biên soạn, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1988, tr. 68-75.
-------------------------------------------------------------------
Source: Talawas
http://www.talawas.org/nn/n120.html
Viết hoa: một chuyện không đơn giản | for everyone |
- Một trong những mục tiêu mà công cuộc "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" hướng tới là chuẩn hóa và thống nhất về mặt chính tả, trong đó có vấn đề viết hoa. Tưởng chừng đây là "chuyện dễ", song đi vào lý thuyết cũng như thực tiễn sử dụng thì mới thấy... rắc rối muôn vàn!
Xưa, ông cha ta dùng chữ Hán, chữ Nôm, hoàn toàn chẳng cần viết hoa hay viết thường. Từ khi chữ quốc ngữ sử dụng các mẫu tự Latin được hình thành và phổ cập rộng rãi, vấn đề viết hoa mới đặt ra.
Có lẽ nên ghi chú điều này: Hiện nay, cũng tương tự chữ Hán, trên thế giới còn một số hệ thống văn tự chẳng có lối viết hoa.
Như chữ ả Rập, chữ Thái, chữ Lào, chữ Khmer... Ngay cả những ngôn ngữ sử dụng mẫu tự Latin để ghi chép thì tùy từng dân tộc, từng cộng đồng mà quy cách viết hoa cũng khác nhau.
Văn tự Đức chỉ viết hoa chữ đầu câu và viết hoa mọi danh từ trong câu; không phân biệt danh từ chung với danh từ riêng, mà chỉ phân biệt danh từ với tất cả các từ loại khác. Văn tự Pháp có cách viết hoa gần giống Việt Nam, song cũng có những khác biệt nhất định.
Không kể lối viết hoa trang trí trong nghệ thuật đồ họa, vì lý do thẩm mỹ, chữ chẳng đáng viết hoa vẫn viết hoa và ngược lại (thường thấy trên bìa sách báo và các bao bì hàng hóa, bích chương) thì viết hoa trong tiếng Việt hiện đại nhằm thể hiện bốn chức năng cơ bản: cú pháp; tu từ; đối lập danh từ riêng với danh từ chung; biệt hóa tên cơ quan, đoàn thể, tổ chức, sản phẩm... Chúng ta thử xem xét lần lượt từng loại.
Viết hoa cú pháp:
Ấy là đánh mốc sự bắt đầu một câu. Cứ mở đầu một câu, chữ cái đầu tiên phải viết hoa, bất kỳ đó là chữ gì. Điều này tạo phân đoạn về phương diện cú pháp, khiến ý tưởng trình bày được mạch lạc, khúc chiết, dễ tiếp thu. Đây là lối viết hoa bắt buộc của chuẩn chính tả Việt ngữ hiện đại, nhìn chung được thực hiện thống nhất khắp toàn quốc, từ bắc tới nam. Kể cả người nước ngoài và bà con Việt kiều dù ở phương trời nào, khi soạn thảo văn bản tiếng Việt đều nghiêm túc tuân thủ quy định này.
Thực ra, quy định này được xác lập cách đây chưa lâu lắm. Theo nhiều nhà nghiên cứu, giai đoạn chữ quốc ngữ hình thành vào thế kỷ 17 thì lối viết hoa cú pháp chưa xuất hiện.
Sách Phép giảng tám ngày của ALEXANDRE DE RHODES in song ngữ Latin - Việt vào năm 1651, cũng như các thư từ viết bằng chữ quốc ngữ thời ấy còn lưu lại, cho thấy:
Người ta chỉ viết hoa sau đoạn xuống hàng và chữ viết hoa được viết thụt đầu dòng; còn các câu trong đoạn văn thì viết thường chữ đầu cả.
Phải đến tháng 4-1865, khi Gia Định báo - tờ báo Việt ngữ đầu tiên ở nước ta - ra đời thì lối viết hoa cú pháp như hiện nay mới thực sự được khẳng định.
Căn cứ tín hiệu nào mà chúng ta viết hoa cú pháp?
DẤU CHẤM (.):
Cứ chấm hết câu thì viết hoa mở đầu câu kế tiếp.
Đó còn là DẤU CHẤM HỎI (?) và DẤU CHẤM THAN (hay DẤU CẢM THÁN(!)).
*** Rắc rối là DẤU CHẤM LỬNG (...) vì nó có thể kết thúc một câu, nhưng nó có thể nằm giữa câu trong trường hợp liệt kê hoặc do chủ ý người viết muốn gây bất ngờ hay diễn tả sự ngắt quãng, sự kéo dài về âm thanh, v.v.
Hãy so sánh mấy thí dụ sau:
- Lòng ta rộn rã nỗi yêu thương... (thơ Hàn Mặc Tử)
- Cờ bạc là bác thằng... ăn trộm.
- Bước chân ra đi, nó khóc mãi... khóc mãi...
- Trang trại được trồng cam, quýt, xoài, điều... thành từng luống ngay hàng thẳng lối.
DẤU CHẤM PHẨY (;)
Cũng là tín hiệu tương tự dấu chấm lửng:
Sau dấu này, có khi viết thường, có khi viết hoa. Đọc nhiều tác phẩm, ta thấy các phần tương đối độc lập trong câu được ngăn cách bằng dấu chấm phẩy, chữ tiếp theo vẫn viết thường. Thế nhưng, ở nhiều văn bản hành chính, nhất là phần "căn cứ", "chiếu theo", "xét đề nghị"... nêu đầu tiên, thì sau các dấu chấm phẩy lại là xuống dòng và viết hoa.
Sau DẤU HAI CHẤM(:) cũng thế.
Có trường hợp viết hoa. Có trường hợp viết thường. Lắm khi rơi vào tình trạng "chín người... mười ý"!
VIẾT HOA TU TỪ:
Danh từ chung, theo nguyên tắc là không viết hoa nếu nó không nằm đầu câu. Thế nhưng, trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định, muốn nhấn mạnh một từ nào đấy, làm cho từ ấy mang sắc thái biểu cảm, thì người ta viết hoa.
Thí dụ:
- Con Người, hai tiếng vang lên đầy kiêu hãnh!
- Ý niệm về Mẹ thường không thể tách rời ý niệm về Tình Thương...
Viết hoa, qua những thí dụ vừa nêu, thường biểu lộ sự tôn kính, góp phần làm câu văn thêm độc đáo. Có thể gọi đây là lối viết hoa tu từ.
Viết hoa tu từ còn được áp dụng khi ghi tước vị, cấp bậc, chức vụ hoặc các yếu tố khác gắn với tên riêng, đặc biệt là các bậc danh nhân. Điều này dẫn tới nhiều cách viết, tạo ra sự không thống nhất.
Thử so sánh:
- Phù Đổng Thiên Vương
- Phù Đổng thiên Vương
- Phù Đổng Thiên vương
- Phù Đổng thiên vương
Người ta tỏ ra phân vân, chẳng biết nên viết Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn hay viết chúa Trịnh, chúa Nguyễn. Nếu viết hoa chữ "Chúa", thì phải viết Vua Lê, Vua Nguyễn. Nếu viết thường chữ "chúa", chữ "vua" ắt phải viết trạng Quỳnh, nghè Tân, đồ Chiểu, tú Xương...
Vậy cũng đủ thấy rằng viết hoa hay viết thường chưa dễ đạt tới sự nhất trí trong một sớm một chiều!
So với lối viết hoa cú pháp, thì lối viết hoa tu từ đã xuất hiện sớm hơn: ngay từ khi chữ quốc ngữ hình thành vào thế kỷ 17. Đến nay, dù có đôi điểm chưa thống nhất như đã nêu, song cả hai lối viết hoa trên đại thể đều đã đạt đến quy cách sử dụng tương đối ổn định trong cộng đồng người Việt.
Phức tạp, rắc rối là chuyện viết hoa để đối lập danh từ riêng với danh từ chung, và nhất là lối viết hoa nhằm biệt hóa tên gọi cơ quan, đoàn thể, tổ chức, sản phẩm...
Viết hoa để đối lập danh từ riêng chung
DANH TỪ RIÊNG
Danh từ riêng là gì? Danh từ chung là gì? Chúng khác nhau chỗ nào? Theo công trình Hoạt động của từ tiếng Việt do Đái Xuân Ninh biên soạn (NXB Khoa học xã hội, HN 1978), thì:
"Danh từ riêng là tên gọi của một người, một vật, một tập thể riêng biệt. Danh từ riêng phân biệt rõ rệt với danh từ chung về mặt chức năng ngữ nghĩa. Danh từ chung là tên gọi của một loạt sự vật, chứ không phải của từng sự vật riêng biệt. Chúng khác với danh từ riêng ở chỗ bao giờ chúng cũng chứa đựng một nội dung ý nghĩa nhất định, kể cả những trường hợp mà chúng chỉ là tên gọi của một đối tượng duy nhất (mặt trời, quả đất...)".
Thể hiện trên văn bản tiếng Việt, danh từ riêng mang dấu hiệu hình thức đặc thù là viết hoa. Song, như Nguyễn Văn Tu nhận xét trong chuyên luận Tiếng Việt trên đường phát triển (NXB Khoa học xã hội, HN 1982) thì:
"Viết hoa các danh từ riêng như thế nào là một vấn đề không ổn định và cho đến nay hầu như không có sự thống nhất".
Để tiện khảo sát, ở đây chúng ta tập trung xem xét quy cách viết hoa nhân danh (họ tên người) và địa danh (tên đất). Chừng ấy cũng đủ thấy... phức tạp lắm rồi!
Về nhân danh,
Từ trước đến nay, tồn tại nhiều cách viết hoa khác nhau dù cùng một họ tên người.
Ví dụ:
- Công Huyền Tôn Nữ Lưu Ly
- Công huyền Tôn nữ Lưu Ly
- Công huyền tôn nữ lưu Ly
- Công - huyền Tôn - nữ Lưu-Ly
- Công - Huyền - Tôn - Nữ - Lưu - Ly
Về địa danh, cũng có nhiều cách viết.
Thí dụ: Sài Gòn, Sài gòn, Sài-Gòn, Sài-gòn, Saigon...
Sau này, theo Quyết định số 240/QĐ do Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình ký ngày 5-3-1984, thì chuẩn chính tả được thống nhất trên toàn quốc như sau:
Đối với tên người và tên nơi chốn, viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết, không dùng gạch nối.
Thí dụ: Trần Quốc Toản, Quang Trung, Hà Nội, Bình Trị Thiên, Vũng Tàu.
Điều ấy đã được áp dụng trong tất cả văn bản từ bấy tới nay.
Thế nhưng, không ít trường hợp vẫn còn khiến mọi người băn khoăn. Viết miền Nam hay Miền Nam, viết Bắc bộ hay Bắc Bộ, viết kiểu nào?
Nếu thêm tọa độ, phương hướng vào, càng lúng túng: nên viết Miền Cực Nam Trung Bộ hay miền cực Nam Trung Bộ, miền cực nam Trung Bộ, miền cực nam Trung bộ đây? Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết, thì viết sông Hồng hay Sông Hồng, viết Hồng hà hay Hồng Hà, viết đồng bằng sông Cửu Long, hay Đồng Bằng Sông Cửu Long đây? Lại thấy có sách báo in Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng Sông Cửu Long, kiểu nào đúng?
Có viết hoa tước vị, cấp bậc, chức vụ hoặc biệt hiệu không? Mặc dù điểm này từng đề cập ở phần viết hoa tu từ, song giờ đây cũng nảy thêm thắc mắc.
Viết Đại úy út Đen hay hay đại úy út Đen, đại úy út Đen nhỉ?
Viết Xuân tóc đỏ hay Xuân Tóc Đỏ nhỉ?
Nhân danh và địa danh tiếng Việt là thế, còn không phải tiếng Việt thì sao?
Bản "Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt" ban hành kèm theo Quyết định 240/QĐ nêu trên có chỉ cách viết tên riêng không phải tiếng Việt, gồm tám trường hợp:
1. Nếu chữ viết của nguyên ngữ dùng chữ cái Latin thì giữ đúng nguyên hình, kể cả các chữ cái f, j, w, z; dấu phụ ở một số chữ cái trong nguyên ngữ có thể lược bớt.
Thí dụ: Shake.e, Paris, Petofi...
2. Nếu chữ viết của nguyên ngữ thuộc một hệ thống chữ cái khác thì dùng lối chuyển từ chính thức sang chữ cái Latin.
Thí dụ: Lomonosov, Moskva...
3. Nếu chữ viết của nguyên ngữ không phải là chữ viết ghi từng âm bằng chữ cái thì dùng lối phiên âm chính thức bằng chữ cái Latin, thường là cách phiên âm phổ biến trên thế giới.
Thí dụ: Tokyo, Kyoto...
4. Trường hợp những tên riêng mà trong thực tiễn sử dụng rộng rãi trên thế giới đã quen dùng một hình thức viết bằng chữ cái Latin khác với nguyên ngữ thì dùng tên riêng phổ biến đó.
Thí dụ: Hungary (dù nguyên ngữ là Magyarorszag), Bangkok (dù nguyên ngữ là Krung Thep)...
5. Sông núi thuộc nhiều nước, nên có những tên riêng khác nhau, thì dùng hình thức tương đối phổ biến trên thế giới, song vẫn có thể dùng theo ngôn ngữ địa phương trong những văn bản nhất định.
Thí dụ: sông Danube / Donau / Duna / Dunares...
6. Những tên riêng hoặc bộ phận tên riêng mà có nghĩa thì dùng lối dịch nghĩa phù hợp.
Thí dụ: Biển Đen, Guinea xích đạo...
7. Những tên riêng đã có hình thức phiên âm quen thuộc trong tiếng Việt thì không cần thay đổi, trừ khi có yêu cầu đặc biệt.
Thí dụ: Pháp, Hi Lạp, Bắc Kinh, Lỗ Tấn..., nhưng thay Ý bằng Italia, thay Úc bằng Australia...
Tuy vậy cũng chấp nhận sự tồn tại khác nhau của một số tên riêng trong những phạm vi sử dụng khác nhau.
Thí dụ: La Mã / Roma...
8. Tên riêng trong các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng thuộc trường hợp không phải tiếng Việt (Kinh).
Xét tám trường hợp đã được quy định, chúng ta thấy ngay rằng có những trường hợp vẫn khó thống nhất (trường hợp 5 hoặc 7).
Không hiếm trường hợp tồn tại nhiều kiểu viết khác nhau trong thực tiễn áp dụng cho đến nay đối với cùng một tên riêng: Shake.e / Xêchxpia / Sếch-xpia; Moskva / Moscow / Moscou / Matxcơva / Mát-xcơ-va / Mạc Tư Khoa...
Như vậy, rõ ràng hiện trạng viết hoa vẫn còn lúng túng và lung tung lắm lắm.
Ngay các từ mặt trời hoặc quả đất dù đã được xác định là danh từ chung, song sách báo vẫn in Mặt trời / Mặt Trời hoặc Quả đất / Quả Đất. Nếu căn cứ vào tiêu chí viết hoa để đối lập danh từ riêng với danh từ chung, thì trong trường hợp này, các em học sinh bị nhầm lẫn là điều rất dễ xảy ra.
Viết hoa để biệt hóa tên cơ quan, đoàn thể, tổ chức, sản phẩm...
Tên cơ quan, đoàn thể, tổ chức, xí nghiệp, công ty, sở, phòng, ban, trường học, sản phẩm... được dùng như những tên riêng - dù chúng không phải là danh từ riêng hoặc chỉ chứa một vài danh từ riêng.
Toàn bộ tên gọi này được viết hoa ra sao?
Bản "Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt" ban hành kèm Quyết định 240/QĐ nêu trên cũng chỉ rõ:
Đối với tên tổ chức, cơ quan, chỉ viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu trong tổ hợp từ dùng làm tên.
Thí dụ: Đảng cộng sản Việt Nam, Trường đại học bách khoa Hà Nội...
Trong giáo trình Tiếng Việt thực hành do Bùi Minh Toán chủ biên (NXB Giáo dục, 2000), phần phụ lục đã đăng toàn văn quyết định cùng quy định ấy.
Thế nhưng, trong cả hai văn bản đều in rõ: Bộ Giáo dục.
Vậy là ngược với quy định! Bởi, theo quy định được nêu kèm ví dụ như vừa dẫn, lẽ ra phải viết Bộ giáo dục thì mới phù hợp chứ.
Qua thực tế, quy định này vẫn không được áp dụng nghiêm túc vì rất nhiều lẽ:
Một tên gọi cơ quan, đoàn thể, công ty, xí nghiệp... lắm khi rất dài, mang đầy đủ ý nghĩa về cấp độ trong một hệ thống tổ chức nào đấy, về chức năng và nhiệm vụ, lại kèm theo danh hiệu cùng địa điểm.
Thí dụ: Trường đại học nông nghiệp Hôxê Máctin Hà Nội; Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất, thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu lương thực, thực phẩm và nông ngư cơ huyện Châu Thành...
Lắm khi, danh từ chung được dùng làm danh từ riêng trong tên gọi cơ quan hoặc sản phẩm, tuy nhiên cách viết tồn tại rất nhiều kiểu.
Thí dụ: Nhà xuất bản Giáo Dục / Giáo dục; Báo Giáo dục và Thời đại / Giáo Dục và Thời Đại/Giáo dục và Thời đại; Tạp chí Tài Hoa Trẻ / Tài hoa trẻ; Tủ sách Hai Tốt / Hai tốt... Thông thường, người ta viết hoa cả cụm từ; Nhân Dân, Tài Hoa Trẻ, Thế Giới Mới, Kiến Thức Ngày nay, Khoa Học Phổ Thông...
Nhưng có người lập luận: Nếu thế thì tên các tác phẩm cũng phải viết hoa cả cụm từ. Chẳng hạn phóng sự Tôi Kéo Xe, tiểu thuyết Gánh Hàng Hoa, tập truyện Anh Phải Sống, bài thơ Màu Tím Hoa Sim, ca khúc Nhìn Những Mùa Thu Đi, bức tranh Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ...
Thậm chí, có người đề nghị viết hoa tất cả: Nhà Máy Vòng Bi - Xích-Líp Đông Anh; Xí Nghiệp Bóng Đèn-Phích Nước Rạng Đông Hà Nội; Công ty Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế...
Viết kiểu này, cộng thêm các lối viết hoa khác (viết hoa cú pháp, viết hoa tu từ, viết hoa danh từ riêng), nếu không khéo sẽ xuất hiện những văn bản toàn viết hoa và viết hoa!
Xu hướng hiện nay là viết hoa không theo âm tiết mà theo từ trong các tên gọi cơ quan, tổ chức.
Thí dụ: Bộ Thông tin, Tuyên truyền, Văn hóa và Du Lịch Lào; Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang...
Cũng chưa ổn! Vì theo cách này, viết Nhà hát Tuồng Đào Tấn e dễ gây ngộ nhận, mà phải viết Nhà hát tuồng Đào Tấn.
Vậy phải xây dựng mô thức thế nào để khỏi "lúc viết kiểu kia, lúc ghi kiểu nọ" rất ... phi hệ thống?
Hội nghị khoa học "Chuẩn mực hóa chính tả và thuật ngữ khoa học" do Viện Ngôn ngữ học kết hợp tổ chức với Trung tâm biên soạn sách cải cách giáo dục (Bộ Giáo dục) đã diễn ra rất quy mô, liên tục từ Hà Nội (7-1978) - vào Huế (8-1978), TP Hồ Chí Minh (10-1978) rồi Hà Nội (6-1979), vậy mà vẫn không đạt đến sự nhất trí về quy tắc chuẩn chính tả chung.
Nhiều hội nghị, hội thảo mang chủ đề tương tự lại tiếp tục được tổ chức bấy nay với kết quả chẳng có gì khả quan hơn.
Một vị giáo sư ngôn ngữ học lão thành phát biểu:
- Dù muốn dù không, việc chuẩn hóa chính tả tiếng Việt cũng phải được xúc tiến để đạt đến sự nhất trí cao dựa trên cơ sở khoa học. Việc này sẽ thuận lợi nếu các chuẩn mực ngôn ngữ khác của tiếng Việt được xác định một cách vững chắc. Riêng quy cách viết hoa, muốn khắc phục tình trạng rối rắm như hiện nay, cũng cần phải dựa trên nhiều thành quả khảo sát và nghiên cứu thật triệt để.
Phúc Đường
(Tạp chí Tài hoa trẻ)
Quốc Văn Giáo Khoa Thư | for everyone |
-
QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ là bộ sách tiếng Việt do các học giả TRẦN TRỌNG KIM – NGUYỄN VĂN NGỌC – ĐẶNG ĐÌNH PHÚC và ĐỖ THẬN biên soạn, được chính thức sử dụng ở các trường Tiểu học (cấp I) Việt Nam trong suốt những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ thứ 20.
Rất nhiều thế hệ học trò, thuở ấy còn để tóc trái đào nay đã thành bậc phụ lão, tóc ngả màu sương mà vẫn có thể đọc thuộc lòng những bài học khai tâm của Quốc Văn Giáo Khoa thư.
Bộ sách tuy nhỏ, bài học tuy ngắn nhưng giá trị sư phạm, giá trị văn học và hiệu quả giáo dục tâm hồn trẻ thơ thì từ trước tới nay, điểm lại trong rừng sách giáo khoa quốc ngữ chưa dễ có công trình nào sánh kịp.
Ngày nay, hầu hết các bạn học sinh sinh viên đều đã học và rất yêu thích bài thơ Quê Hương của Giang Nam:
“Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường,
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.
Ai bảo chăn trâu là khổ,
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao…”
Các bạn biết không – những trang sách nhỏ mà nhà thơ Giang Nam đã xem như tình yêu chính là những trang sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư này đây. Chính cái tình yêu quê hương mơ màng xinh xắn ấy ấp ủ trong tâm hồn nhà thơ, sau này sẽ lớn lên thành bài thơ Quê Hương của thời chống Mỹ cứu nước.
Trong tác phẩm Hương Rừng Cà Mau, một quyển cảo thơm của phía nam Tổ quốc, nhà văn Sơn Nam cũng đã “phải lòng” trước một thứ Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư ngọt ngào trong sáng như giai điệu mùa xuân:
… “Văn chương nghe như đờn Nam Xuân: Nước mềm đá rắn, thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ cây gỗ lớn, thế mà dây cưa mãi gỗ cũng phải đứt. con kiến nhỏ cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ. Người ta cũng vậy…”
(Trích truyện ngắn Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư trong tập HƯƠNG RỪNG CÀ MAU của SƠN NAM – xem truyện này ở phần phụ lục cuốn sách).
Một bộ sách như thế, rõ ràng là vốn quí trong kho tàng văn hóa của dân tộc. Được sự đồng ý của Cục Xuất Bản, chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu TUYỂN TẬP QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ gồm 3 quyển: QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ lớp Sơ-đẳng, QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ lớp Dự-bị và LUÂN LÝ GIÁO KHOA THƯ lớp Đồng-ấu.
Chúng tôi chủ trương giữ đúng nguyên tác từ các bản in của Việt Nam Tiểu Học Tùng Thư thuở trước, kể cả phần minh họa khắc trên bản gỗ. Ngoại trừ một số ít bài, mang dấu ấn chính trị rõ rệt của thời Pháp thuộc đã được loại bỏ, tất cả những bài còn lại, mang phần hồn của Quốc Văn Giáo khoa Thư đều được phục hiện trong tuyển tập này.
Lần tái bản này cách lần trước đã gần nửa thế kỷ, một khoảng cách thời gian đủ để nhớ và để quên trong tâm lý bạn đôc. Dù nhớ dù quên, xin hãy đón nhận quyển sách này như món quà tinh thần trong hành trang VỀ NGUỒN của những thế hệ trẻ hôm qua và hôm nay.
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
Tháng 3 – 1993
MỘT ÔNG QUAN THANH LIÊM
Ông Trịnh Đàm Toàn làm quan đời xưa, có tiếng là người nhân từ trung hậu, chỉ siêng việc nước giúp dân yên, hết lòng bênh vực những kẻ hèn yếu. Thường ai cho gì ông cũng không lấy. Một ngày kia, có người đem lễ một bao trà, ông không muốn nhận, người kia cứ nói mãi, ông nể lòng, bảo cất đi. Đến khi xem ra thì thấy trong bao toàn những đồ vàng cả. Ông không nói gì, lại đậy nắp lại, rồi cho gọi người ấy đến mà bảo rằng: “Vừa rồi ta tưởng hết trà uống, mà nhà ngươi lại có lòng tốt đem cho, thì ta lấy. Nhưng bây giờ xem ra thì trong nhà hãy còn đủ uống”. Nói xong đưa bao trà trả lại. Nói rồi ông cũng không tỏ cho ai biết là người ấy người ấy đến cầu cạnh mình. Ấy, không những ông là một người làm quan thanh liêm mà lại có tính hồn hậu, không hay đem chuyện bí mật của người ta mà thổ lộ ra ngoài.
Giải nghĩa: Thanh liêm: trong sạch, nghiêm chỉnh. Nhân từ: thương người. Trung hậu: ăn ở có đạo lý, có tình nghĩa. Cầu cạnh: tìm cách để xin một ân huệ nào đó. Hồn hậu: hiền lành, tốt bụng. Bí mật: kín đáo. Thổ lộ: bày tỏ ra ngoài.
CHUYỆN MỘT NGƯỜI THỢ ĐÁ CÓ LƯƠNG TÂM
Người ta ở đời phải ăn ở có trung hậu thành thực, dẫu được giàu sang mà làm điều trái đạo, thì thế nào (1) cũng không làm, mà làm điều ngay lành, thì dẫu có cực khổ, cũng cố (2) làm cho được.
Xem (3) như đời xưa, người Sái Kinh là một đứa gian nịnh có quyền thế, thấy bọn Tư Mã Quang là trung thần, không chịu vào đảng với mình, bèn đem lòng ghen ghét, sai thợ khắc tên những ông ấy vào bia đá, bày ở các phủ huyện để làm cho xấu xa.
Lúc ấy có một người thợ đá tên An Dân, không chịu khắc, nói rằng: “Chúng tôi ngu dốt, không hiểu ý làm sao, nhưng cứ như bọn ông Tư Mã Quang thì ai cũng khen là chính trực, mà sao lại bảo là gian tà, tôi không nỡ khắc”. Quan phủ giận, toan bắt tội. An Dân khóc mà nói rằng: “Bắt làm thì tôi xin làm, nhưng xin tha cho, đừng bắt khắc tên người thợ đá ở dưới bia”. Quan phủ nghe câu ấy, cũng thẹn mặt với người thợ đá.
Giải nghĩa: Trung hậu: ngay thẳng, hiền lành, trước sau như một. Trái đạo: ngược với đạo lý, lẽ phải. Quyền thế: quyền hành và thế lực, chỉ những kẻ có chức vị lớn. Trung thần: Kẻ bề tôi hết lòng phục vụ nhà vua. Bọn: ở đây có nghĩa là những người cùng chung một tình cảm, một lý tưởng, khác với tiếng bọn ngày nay mang ý nghĩa coi rẻ, để chỉ sự tập hợp của những người nhân cách không ra gì. Chính trực: đường hoàng, ngay thẳng. Gian tà: làm điều gian dối, tàn ác. Thẹn mặt: mắc cỡ, xấu hổ.
---------------
(1) làm sao
(2) ráng
(3) Coi
TÔI ĐI HỌC
Năm nay tôi lên bẩy (1) tuổi. Tôi không chơi đùa lêu lổng (2) như mấy năm còn bé. Tôi đi học. Tôi học đọc, học viết, học tính, học vẽ và nhiều khoa học khác nữa.
Tô cố tôi học. Tôi chăm tôi học, học sao cho mau tấn tới cho “văn hay chữ tốt” cho cha mẹ và thầy giáo được vui lòng.
Giải nghĩa: Lên bẩy: được bảy tuổi (Bẩy là phát âm theo miền Bắc). Lêu lổng: tha hồ chơi đùa không ai ngăn cấm. Còn bé: còn nhỏ (bé là tiếng quen dùng ở miền Bắc). Khoa học: ở đây có nghĩa là môn học, như luân lý, toán, địa lý, sử v.v… Tấn tới: mỗi ngày một khá hơn, giỏi hơn. Văn hay: ở đây chỉ bài làm có kết quả.
CON CÒ MÀ ĐI ĂN ĐÊM
(Cao dao) Bài học thuộc lòng
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao,
Ông ơi ông vớt tôi nao!
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Giải nghĩa: Lộn cổ: đâm đầu xuống. Vớt: lôi từ dưới nước lên. Nao: như nào, là một tiếng đệm sau lời kêu nài. Xáo măng: nấu chung với măng tre để làm món ăn.
ĐI HỌC PHẢI ĐÚNG GIỜ
Xuân đi học coi người hớn hở,
Gặp câu Thu đi ở giữa đàng,
Hỏi rằng: "Sao đã vội vàng,
Trống chưa nghe đánh, đến tràng làm chi?
Thôi, hãy hượm, đừng đi, anh ạ.
Này con khăng tôi đã sẵn rổi.
Cùng nhau ta hãy đánh chơi.
Lát rồi ta sẽ tới nơi cũng vừa."
- Thu đáp lại: "Dẫu giờ còn sớm,
Cũng nên đi, kẻo chậm làm sao?
Nếu chờ khi đánh trống vào,
Dầu ta rảo bước tài nào kịp cho.
Trễ giờ ta phải nên lo."
Giải nghĩa: - Hớn hở = người nom có dáng vui vẻ. - Hãy hượm (= hưỡn) = thong thả, đừng đi vội. - Con khăng = con khăng thường làm bằng hai miếng tre hay gỗ, vót tròn, một miếng dài, một miếng ngắn. - Rảo bước = đi mau chân.
AI ƠI, CHỚ VỘI KHOE MÌNH
Con bươn bướm kia, cánh vàng rực rỡ, lại có những đốm đen, đốm đỏ, trông rõ thật đẹp. Một hôm, bay nhởn nhơ trên bụi cây ở vệ đường. Hết ngành nọ, sang ngành kia, thảnh thơi vui thú. Tưởng mình đã đẹp, thì ai chẳng kính yêu. Ngờ đâu có ba anh học-trò đi học về, bỗng trông thấy bướm kia đang bay ở bụi cây trước nặt, vội vàng, anh thì lấy nón úp, anh thì lấy sách đập, xô đẩy nhau đuổi bắt cho được.
Con bươm bướm kia đã vào tay lũ trẻ, thôi thì hết anh này lôi cánh, lại đến anh kia kéo chân, thật là rã rời tơi tả, chẳng được bao lâu mà hóa ra tửng mảnh. Ấy cũng vì con bươm bướm có cái sắc đẹp, mà phải những cái tai hại thảm thiết như thế. Thật đáng thương thay!
Giải nghĩa: - Nhởn nhơ = nhí nhảnh, làm bộ làm dáng. - Ngành = nhành. - Thảnh thơi = nhàn hạ phong lưu, không có bận bịu điều gì. - Rã rời tơi tả = tan nát ra. - Thảm thiết = khốn nạn, đáng thương xót.
Tối ở nhà
Cơm nước xong, trời vừa tối. Ngọn đèn treo, thắp giữa nhà. Cha ngồi đọc nhật báo. Anh đang ngồi cúi xuống xem sách hay làm bài. Mẹ và chị, kim chỉ vá may. Ở bên cạnh, hai đứa em nhỏ đang nghe bà kể câu chuyện cổ tích, thỉnh thoảng lại khúc khích cười với nhau rất vui vẻ.
Ban ngày đi làm ăn khó nhọc; tối đến cả nhà được đông đủ sum vầy như vậy, tưởng không có cảnh nào vui hơn nữa.
Giải nghĩa:
Nhật báo: báo ra hằng ngày.
Chuyện cổ tích: chuyện đời xưa.
Sum vầy: hội họp, quây quần, gần gũi bên nhau
CÁI LƯỠI
Một hôm, người chủ bảo người đầy tớ rằng: “Mày ra bắt con lợn đem làm thịt, và xem cái gì ngon hơn cả thì đem về đây cho tao”.
Tên đầy tớ vâng lời, bắt lợn giết và lấy cái lưỡi đem vào hầu chủ.
Mấy hôm sau, người chủ muốn thử tên đầy tớ, lại bảo nó đi làm thịt con lợn khác và dặn rằng: “Xem cái gì không ngon hơn cả thì đem vào”.
Tên đầy tớ làm lợn xong, lại đem cái lưỡi vào cho chủ.
Người chủ hỏi: “Thằng này láo! Sao lần này mày lại đem cái lưỡi vào cho ta như lần trước?”
- “Thưa ông, cũng một cái lưỡi, khi tử tế ra thì không có gì tốt cho bằng, nhưng khi độc ác, thì lại không có gì xấu bằng”.
Giải nghĩa: Đầy tớ: người ở, kẻ hầu hạ trong nhà. Lợn: (tiếng quen dùng miền Bắc) tức con heo. Thử: tìm cách nào đó để dò biết một sự thật. Láo: ở đây là tiếng mắng của người trên để nói về sự vô lễ, sự bất kính của kẻ dưới.
BA THẦY THUỐC GIỎI
Một ông thầy thuốc già, chữa bịnh giỏi có tiếng. Phải khi ông ốm nặng, các học trò đến chầu chực, thuốc thang bên cạnh. Ông cố gượng nói rằng: “Lão biết mình lão đã đến ngày tận số rồi, nhưng lão có nhắm mắt, cũng cam lòng, vì lão có để lại cho đời ba thầy thuốc rất hay”. Ông nói đến đây, nhọc quá, phải nghỉ. Các thầy thuốc học trò thấy ông nói thế, đều lắng tai nghe, ai cũng nghĩ bụng, trong ba nười ấy, thế nào cũng có tên mình. Ông nghỉ rồi lại nói: “Trong ba thầy thuốc ấy, thì hay nhất là thầy Sạch sẽ, thứ nhì là thầy Điều độ, thứ ba là thầy Thể thao. Sau khi thầy mất rồi, nếu các anh biết theo ba thầy ấy mà chữa cho người ta, thì thiên hạ khỏi được biết bao nhiêu là bịnh tật”.
Giải nghĩa: Cố gượng: gắng hết sức vì suy yếu. Tận số: hết số, ý nói sắp chết. Cam lòng: thoả lòng, hả dạ. Điều độ: luôn giữ chừng mực, phải chăng, không ít không nhiều. Thể thao: các môn vận động cơ thể. Thiên hạ: nói chung mọi người.
LÒNG THẢO HIẾM CÓ
Mẫn tử Khiêm, mẹ mất sớm, bị người dì ghẻ ác nghiệt, xử tàn nhẫn lắm. Mùa rét chỉ cho Mẫn tử mặc một manh áo mỏng, còn hai con riêng mình, thì cho mặc áo bông, áo mền tử tế.
Một hôm, người cha sai Mẫn tử đi đẩy xe, Mẫn tử rét quá, lập cập vấp ngã. Cha quở mắng, Mẫn tử cũng không nói gì. Sau cha biết người dì ghẻ để cho Mẫn tử phải chịu đói rét, và thường khi lại còn hành hạ khổ sở, thì muốn đuổi ngay đi.
Mẫn tử biết ý, can cha rằng: "Dì con mà còn ở lại, thì chỉ có một mình con chịu rét mà thôi, chớ dì con mà không ở đây nữa, thì ba anh em chúng con đều bị đói rét cả."
Người cha nghe nói, cho là phải, và người dì ghẻ thấy Mẫn tử hiếu đễ như thế, lấy làm cảm động, từ đó cư xử với Mẫn tử rất là tử tế.
Giải nghĩa. - Tàn nhẫn = làm cho người ta đau đớn, khổ sở. - Áo mền = áo lót có lần dựng ở giữa. - Can = ngăn không để ai làm một việc gì. - Cảm động = thấy việc gì ở ngoài mà động đến trong lòng.
LÒNG KÍNH YÊU CHỊ
Ông Lý-Tích làm quan to đời xưa. Ông đã già mà vẫn yêu kính chị một cách khác thường. Một hôm, bà chị ốm, ông thân hành đi nấu cháo cho chị ăn, chẳng may gió quạt ngọn lửa cháy cả râu. Bà chị nói rằng; "Nhà thiếu gì đầy tớ mà em lại khổ thân như vậy?" - Ông đáp lại rằng: "Nay chị đã già, mà em cũng già rồi, dẫu em có muốn nấu cháo cho chị ăn mãi, phỏng đã dễ mà được hay sao?"
Một người như ông Lý Tích, làm quan quyền quí bao nhiêu mà yêu chị như thế, thật là đáng khen thay!
Ôi! Anh chị em là cùng một cha mẹ sinh ra, ở với nhau từ thuở nhỏ dại cho đến khi khôn lớn, dạy bảo nhau, bênh vực nhau, lúc vui cười, lúc buồn-bực, bao giờ cũng có nhau, thì cái tình thân ái biết bao giờ cho phai nhạt đi được!
Giải nghĩa. - Ốm = đau. - Thân hành = Tự mìnhh đi làm lấy. - Khổ thân = để thân mình phải chịu điều khổ. - Quyền quí = có quyền tước sang trọng. - Thân ái = yêu mến thân thiết.
LỜI KHUYÊN CON
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng
Con ơi, muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu-thùa.
Trai thì đọc sách, ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
Giải nghĩa. - Canh cửi = dệt tơ, dệt vải. - Dùi mài = chăm-chỉ học-hành. - Kinh-sử = sách vở học để đi thi. - Kịp khoa = đây là kịp khoa thi.
THƯƠNG NGƯỜI NHƯ THỂ THƯƠNG THÂN
Thấy người hoạn nạn thì thương,
Thấy người tàn tật lại càng trông nom.
Thấy người già yếu ốm mòn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa.
Nguyễn Trãi gia huấn.
Đại ý - Trong bài nói phải thương hết cả mọi người cùng khổ, hoạn nạn, như người tàn tật, người già cả, người ốm yếu. làm điều hay thì gặp hay, dù không nữa, thì trong bụng cũng được hả hê.
Giải nghĩa.- Trông nom = coi sóc. - Hoạn nạn = những điều sẩy đến làm cho lo lắng khổ sở. - Phụ = quên ơn, bội nghĩa. - Có nhân = có lòng thương yêu mọi người. - Có đức = có bụng tốt, ăn ở tử tế với mọi người. - Vinh hoa = sang trọng, sung sướng.
ANH NÓI KHOÁC
Tí và Sửu đi qua một đám ruộng bí. Tí chợt trông thấy quả bí to, nói rằng: "Chà! Quả bí đâu mà to như thế kia!" Sửu có tính hay nói khoác, cười mà bảo rằng: "Thế đã lấy gì làm to. Tôi đã từng thấy những quả bí to hơn nhiều. Có một bận, thật mắt tôi trông thấy một quả bí to bằng cả một cái nhà ở trước mặt ta kia kìa. - Tí nói: "Thế đã lấy gì làm lạ. Tôi còn nhớ một bận tôi trông thấy cái xanh đồng to vừa bằng cả cái đình làng ta ấy". - Sửu hỏi: "Cái xanh ấy dùng để làm gì mà to quá như thế?" - "À, thế bác không biết à. Cái xanh ấy dùng để luộc quả bí của bác vừa nói ấy mà."
Sửu biết Tí chế nhạo mình, mới nói lảng ra chuyện khác.
Nói điều gì phải cho đúng với sự thật, chớ nên bịa đặt ra mà người ta chê cười.
Giải nghĩa. - Nói khoác = nói quá sự thật. - Quả = trái. - Xanh = đồ bằng đồng dùng để đun nấu, có hai quai, và khác với cái chảo, vì nó bằng trôn.
CON CHỒN VÀ CON GÀ TRỐNG
Một hôm, con chồn gặp con gà trống ở bụi tre. Gà sợ, kêu rối rít. Chồn cũng sợ chủ nhà họ bắt được, thì họ đập chết. Chồn bèn lấy lời ngon ngọt dỗ gà rằng: "Sao bác lại gắt gỏng như vậy? Tôi với bác là họ hàng bà con với nhau cả đấy mà." Gà thấy chồn nói dễ nghe, cất tiếng gáy vui vẻ lắm. Chồn khen nức nở: "Ôi chao! bác gáy sao mà hay như thế! Song tôi còn nhớ ngày xưa ông nhà ta gáy còn hay hơn mấy, vì lúc cụ gáy cụ cứ nhắm mắt lại." Gà lại gáy, nhưng vẫn còn ngờ vực, chỉ nhắm có một mắt mà thôi. Chồn ở dưới làm như gõ nhịp, vừa cười vừa nói: "Ôi chao ôi hay quá! Nhưng nếu bác nhắm cả hai mắt lại mà gáy, thì tôi chắc bao nhiêu gà ở xung quanh đây nghe tiếng chỉ những nổi cơn ghen lên mà chết!" Gà đắc ý, nhắm tít cả hai mắt lại, định gáy cho thật hay, nhưng vừa há mỏ, chồn đã nhẩy chồm lên cắn cổ mà tha về tổ để ăn thịt.
Ôi! Mật ngọt chết ruồi! Hay ưa nịnh hót có khi hại đến thân.
Giải nghĩa. - Chồn = giống vật mõm dài và nhọn, tai to, đuôi dài, hay bắt gà và chim, ta thường gọi là cáo, nhưng không được đúng vì cáo thuộc về loài mèo. - Rối rít = chíu chít. - Gắt gỏng = rầy rà. - Gõ nhịp = đánh cái gì để cùng họa theo vào tiếng đàn, tiếng hát. - Nhắm tít = nhắm kín mắt lại, hai mi mắt như dính liền với nhau. - Mật ngọt chết ruồi = câu tục ngữ, nghĩa đen: con ruồi thấy mật ngọt, ham ăn mà chết; nghĩa bóng: người ta vì ưa lời nịnh mà hại đến thân.
CHƠI ĐÙA KHÔNG PHẢI LÀ VÔ ÍCH
Cứ đến giờ chơi, học trò ra cả ngoài sân, đứa thì chạy nhảy, đứa thì đánh quay (đánh vụ), chơi đùa ầm ĩ, thật vui vẻ. Duy có cậu Tí cứ cầm quyển sách đọc, không chịu chơi.
Thầy giáo thấy thế đã nhiều lần, một hôm gọi cậu Tí lại hỏi. Cậu ấy thưa rằng: “Thưa thầy, con tưởng đã đi học, thì chỉ chăm lo học hành, chơi đùa làm gì cho phí thời giờ”. Thầy nói: “Cũng khá khen cho con là đứa chăm học. Nhưng miễn là đừng lười biếng thì thôi, chứ chơi đùa chạy nhảy, cũng không phải là vô ích. Nếu con mãi miết học cả ngày, không nghỉ một phút nào, thì trí khôn sinh quẫn, mà thân thể cũng mỏi mệt, học sao tinh tường được. Vậy phải có học và có chơi, thì sự học mới dễ dàng và chóng tấn tới.
Giải nghĩa: Phí: uổng. Mãi miết: quá chú tâm vào một việc gì. Miễn là: chỉ cốt là, quí hồ là. Quẫn: mệt mỏi và mất sáng suốt. Tinh tường: sáng tỏ.
CHỖ QUÊ HƯƠNG ĐẸP HƠN CẢ
Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: “Ông đi du sơn du thuỷ, thế tất đã trông thấy nhiều cảnh đẹp. Vậy ông cho ở đâu là thú hơn cả?” Người du lịch đáp rằng: “Cảnh đẹp mắt tôi trông thấy đã nhiều, nhưng không đâu làm cho tôi cảm động, vui thú bằng lúc trở về chốn quê hương, trông thấy cái hàng rào, cái tường đất cũ kỹ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể không sao xiết được.”
Giải nghĩa:
Du lịch: (du: chơi, lịch: trải) đi thăm chơi nhiều nơi. Du sơn du thuỷ: chơi chỗ núi, chỗ sông, ý nói đã xem nhiều phong cảnh đẹp. Thế tất: ắt hẳn. Quê hương: làng quê, nơi mình sinh ra và lớn lên có nguồn gốc tổ tiên ở đấy. Khúc khuỷu: quanh co, gập gẩy, không thẳng một chiều. Chứa chan: đầy tràn, nhiều, bề bộn. Không sao xiết được: không sao hết được. Tiếng xiết quen dùng ngày xưa, nay ít phổ biến.NGƯỜI SAY RƯỢUNGƯỜI TA PHẢI LÀM VIỆC
Các anh hãy trông người kia đi ngoài đường. Mặt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ, vẹo bên kia, múa chân múa tay, mồm nói lảm nhảm, chốc lại ngã chúi một cái. Lũ trẻ đi theo sau, reo cười chế nhạo. Thỉnh thoảng anh lại đứng lại, nói những chuyện gì ở đâu đâu. Người qua lại, trông thấy cũng phải tránh xa.
Người ấy vừa ở hàng rượu ra. Chỉ tham mấy chén rượu mà thành ra say sưa, mất cả tư cách con người, có khi như là con vật vậy, thật là đáng khinh bỉ.
Hỡi các anh, các anh đã trông thấy người say rượu như thế, thì nên lấy đó làm gương mà giữ mình.
Giải nghĩa. - Xốc xếch = xệch-xạc = không được gọn gàng. - Tư cách = phẩm giá.
NGƯỜI NGHIỆN THUỐC PHIỆN
Trông thấy Chánh Còm, ai cũng biết là người nghiện. Trước khi, thầy là người béo tốt phương phi, tinh nhanh khôn khéo, mà bây giờ thì mặt bủng da chì, xo vai rụt cổ, giọng nói khàn khàn, cái môi thâm sịt, nom người lẻo khoẻo như cò hương. Thầy mới ăn thuốc phiện mấy năm nay mà đã khác hẳn đi như vậy.
Thầy Chánh Còm từ khi đa mang thuốc xái đến bây giờ, thành ra lười biếng, chậm trễ. Sáng dậy, ít ra cũng phải mươi lăm điếu mới mở mắt ra được, và cả ngày quanh quẩn cạnh bàn đèn, chỉ cái xe (thoe) cái lọ, ngoài ra không thiết đến việc gì nữa.
Xem thế mới biết thuốc phiện là một thứ thuốc độc rất hại. Nó hại sức khỏe, hại tinh thần. Nó làm mất thì giờ, mất tiền của, có khi mất cả phẩm giá con người nữa. Vậy ta chớ nên hút thuốc phiện.
Giải nghĩa. - Nghiện = nghiền, ghiền. - Phương phi = vạm vỡ, trông ra dáng. - Tinh nhanh = lanh lợi. - Thâm sịt = đen sì. - Lẻo khoẻo = lỏng khỏng. - Cò hương = cò ma. - Đa mang = mang lấy, mắc phải; đa mang thuốc xái = từ khi mang lấy bệnh nghiền. - Lười biếng = làm biếng. - Cái xe = cái dọc tẩu. - Cái lọ = cái ống cái nối.
Người làm ruộng có trồng trọt cấy cày, thì ta mới có thóc gạo mà ăn. Thợ nề, thợ mộc có làm nhà, thì ta mới có nhà mà ở. Thợ dệt có dệt vải, thợ may có may áo, thì ta mới có đồ mặc vào mình. Quyển sách ta học cũng phải có người làm, người in. Cái đường ta đi cũng phải có người sửa, người quét. Nói tóm lại, nhất thiết một chút gì ta cần dùng đến, cũng là có người chịu khó làm việc mới nên.
Giải nghĩa: Trồng trọt: có nơi gọi là trồng trỉa hoặc trồng tỉa, tức là làm cho các loại cây hoa màu được mọc ra, lớn lên và có kết quả. Thóc: (tiếng quen dùng ở miền Bắc) lúa. Nhất thiết: bất cứ cái gì cũng phải như vậy.
KHUÂN TẢNG ĐÁ
Trời nhá nhem (chạng vạng) tối. Tôi thấy một ông già hì hục khuân một tảng đá. Nhắc lên, để xuống đến bốn năm lần, mới đem được từ giữa đường đến chỗ bụi cây mà bỏ đấy. Tôi lấy làm lạ, chạy lại hỏi, thì ông cụ vừa thở vừa nói rằng: “Lão đi lỡ vấp phải tảng đá này, sầy cả chân, đau lắm. Nên lão khuân bỏ vào đây, sợ cứ để đấy, lại có người vấp ngã nữa chăng.”
Tôi thấy nói, lấy làm nghĩ. Ông cụ già chịu nhọc mình một lúc, để đỡ cho người đi đêm trên con dường không vấp phải tảng đá, cũng là một việc làm phúc đáng khen vậy.
Giải nghĩa: Nhá nhem: (tiếng thường dùng ở miền Bắc) chạng vạng, còn gọi là tranh tối tranh sáng. Hì hục: làm một việc gì một cách nặng nhọc. Lão: tôi, hay ta, tiếng của người già tự xưng. Sầy: rách da. Đấy: (tiếng thường dùng ở miền Bắc) đó. Làm phúc: làm điều tốt lành cho kẻ khác.
HỌC TRÒ BIẾT ƠN THẦY
Ông Carnot xưa là một ông quan to nước Pháp, một hôm nhân lúc rảnh việc về chơi quê nhà. Khi ông đi ngang qua tràng học ở làng, trông thấy ông thầy dạy mình lúc bé, bấy giờ đã đầu tóc bạc phơ, đang ngồi trong lớp dạy học. Ông ghé vào thăm tràng và chạy ngay lại trước mặt thầy giáo, chào hỏi lễ phép mà rằng: “Tôi là Carnot, thầy còn nhớ tôi không?” Rồi ông ngoảnh lại khuyên bảo học trò rằng: “Ta bình sanh, nhất là ơn cha, ơn mẹ, sau ơn thầy ta đây, vì nhờ có thầy chịu khó dạy bảo, ta mới làm nên sự nghiệp ngày nay.”
Giải nghĩa: Rảnh việc: Không có việc phải làm, thong thả. Bình sanh: sống ở đời. Sự nghiệp: những gì đáng kể do mình xây dựng nên trong cuộc sống.
ĐI HỌC ĐỂ LÀM GÌ?
Bác hỏi tôi đi học để làm gì. Tôi xin nói bác nghe.
Tôi đi học để biết đọc những thư từ người ta gửi cho tôi và viết những thư từ tôi gửi cho người ta. Tôi đi học để biết đọc sách, đọc nhật báo, thấy điều gì hay thì bắt chước.
Tôi đi học để biết tính toán, biết mọi sự vật và biết phép vệ sinh mà giữ thân thể cho khoẻ mạnh.
Nhưng tôi đi học cốt nhất là biết luân lý, cho hiểu cách ăn ở để thành người được người con hiếu thảo và người dân lương thiện.
Giải nghĩa: Hiếu thảo: biết cách ăn ở có đạo lú với cha mẹ. Lương thiện: hiền lành, tử tế.CÔNG VIỆC NHÀ NÔNGLÀM CON PHẢI CHO DỄ DẠY
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đâu đã già,
ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sáng ngày, đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm, ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi lên mạ, thì ta nhổ về.
Sẵn tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
(Còn nữa)
Giải nghĩa. - Tậu = mua cái gì để làm của riêng của mình, như tậu nhà, ruộng, v.v.... - Ngâm = để lâu dưới nước. - Mầm = mộng.
CÔNG VIỆC NHÀ NÔNG
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng
(tiếp theo)
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười, còn độ một hai.
Ruọng cao đóng một gàu giai,
Ruộng thấp thì phải đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô, quạt sạch, ấy là xong công.
Giải nghĩa. - Vơi = lưng = không đầy, kém đi, cạn đi. - Gàu giai = một thứ gàu có dây, phải hai người cầm mà tát nước. - Gàu sòng = một thứ gàu buộc vào ba cái cọc, một người tát. - Đòng đòng = hoa lúc còn non, chưa ra khỏi cái màng bọc ở ngoài.
Làm con mà biết yêu mến cha mẹ, ân cần đến cha mẹ thì cha mẹ cũng đã vui lòng lắm rồi. Nhưng muốn cho cha mẹ được vui lòng hơn nữa, thì con phải vâng lời dạy bảo. ý mình muốn làm gì, mà cha mẹ bảo đừng, mình cũng phải thôi; ý mình không muốn làm, mà cha mẹ bảo làm, mình cũng phải làm. ta phải biết rằng cha mẹ ngăn cấm điều gì cũng là muốn cho mình được hay. vậy mình vâng lời cha mẹ, tức là ích lợi cho mình. Cũng ví như ông thầy thuốc bắt người ốm phải kiêng nhịn vật gì, là để chữa cho người ấy mau khỏi.
Những con nhà không chịu nghe lời cha mẹ thường hay hại đến thân. Ca dao ta có câu:
Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Giải nghĩa. - Ân cần = săn sóc đến luôn. - Ươn = nặng mùi.
CÓ HỌC PHẢI CÓ HẠNH
Sài Thế Viễn, thuở bé đi học, không chuộng nghề văn chương mấy, chỉ chuyên chú về đường tâm tính tức là khoa tu thân luân lý vậy. Có người thấy thế, bảo ông rằng: "Đi học cốt là để cầu cho được văn hay chữ tốt, thi đỗ làm quan, chớ tâm tính học tưởng không cần gì cho lắm". Ông Sài Thế Viễn đáp: "Học hành ai cũng muốn cầu cho giỏi, nhưng học giỏi mà lại giữ được phẩm hạnh mới thật là đáng quí. Chớ học mà không có hạnh cũng chẳng làm gì. Phẩm hạnh tức là danh giá của con người ở đời vậy."
Nhiều người nghe nói, cười ông Sài Thế Viễn là vu khoát.
Sau, ông thi đỗ tiến sĩ, làm quan đến bậc thượng thư, nổi tiếng là một người có phẩm hạnh.
Giải nghĩa. - Chuyên chú = để cả tâm chí nghĩ vào một việc gì. - Tâm tính = đây tức là nết ăn ở của người ta. - Tu thân = sửa mình. - Hạnh = cách ăn ở tử tế. - Vu khoát = viển vông, không thiết với sự thật.
CHỚ NÊN HAM MÊ CỜ BẠC
Tính ham mê cờ bạc là một tính rất xấu, nó làm cho người ta phải nhiều sự thiệt hại và mất cả phẩm giá. Ai đã mắc phải tính xấu ấy thì chẳng mấy người tránh khỏi sự nghèo khổ túng bấn, rồi sinh ra gian lận điên đảo, vì cờ bạc là một cách ăn chơi tổn hại nhiều tiền. Họa là mới có khi được, mà được thì xa phí hết ngay, còn khi thua thì nhiều, mà thua mãi thì thành ra công nợ, có khi đến nỗi vong gia thất thổ, phải đi ăn mày ăn xin, ăn trộm ăn cắp, làm những điều hèn hạ xấu xa. Đã cờ bạc thì còn danh giá gì! Dẫu ông gì bà gì, mà đã ngồi vào đám bạc, thì cũng thành ra đê tiện. Ai cũng gọi là con bạc, đồ cờ bạc.
Bởi thế cho nên các anh phải giữ gìn, đừng bắt chước những phường cờ bạc, đừng có tập nhiễm lấy cái thói xấu ấy.
Giải nghĩa. - Gian lận = giả dối để lừa đảo người ta. - Điên đảo = gian dối, lật lọng. - Họa là = may. - Xa phí = chi tiêu hoang toàng vô ích. - Vong gia thất thổ = mất nhà mất ruộng. - Hèn hạ = đê tiện. - Con bạc = bợm bạc. - Tập nhiễm = tập quen, không bỏ được.
KÍNH (GƯƠNG) ĐEO MẮT
Có một bác nhà quê dốt nát, thấy một ông cụ già hễ khi đọc sách, thì lại đeo kính vào mắt. Bác tưởng rằng đeo kính thì đọc được sách. Một hôm, bác ra tỉnh, vào ngay một hiệu để mua kính.
Bác giở một quyển sách ra, cầm trước mắt để thử kính (gương). Bác thử luôn đến năm bảy thứ kính, mà thứ nào bác cũng chê rằng xấu, không thể xem được sách. Nhà hàng lấy làm lạ, hỏi rằng: "Vậy ông có biết đọc không đã?" Người nhà quê gắt lên, trả lời rằng: "Ô hay! Nếu tôi mà biết đọc, thì hà tất tôi phải đến đây mua kính của bác." Nhà hàng phì cười, bảo rằng: "Đây tôi không có thứ kính nào đọc được sách cả. Ông muốn xem được sách, xin hãy về học quốc ngữ cho thông đã."
Giải nghĩa. - Nhà hàng = chỉ người bán kính. - Ô hay = hay chưa. - Hà tất = sao cần phải. - Thông = suốt, đây là nói học cho giỏi đã.
TRUYỆN NGƯỜI THỪA CUNG
Thừa Cung nhà nghèo mồ côi cha từ lúc hãy còn nhỏ. Khi mới lên tám, làm nghề chăn lợn (heo) để nuôi thân. Trong làng có ông Từ Tử Thịnh mở tràng dạy học, học trò xa gần đến học đông lắm. Thừa Cung mỗi khi chăn lợn qua tràng, thấy tiếng giảng sách, thì dừng lại nghe, trong lòng lấy làm vui lắm, muốn đi học. Sau anh ta xin đến ở nhà học để dọn dẹp, quét tước. Từ Tử Thịnh thấy Thừa Cung mặt mũi khôi ngô, thuận cho ở. Lúc rãnh việc, anh ta chỉ chăm chăm chúi chúi học hành. Được vài ba năm Thừa Cung thành một người học trò giỏi, có tiếng thời bấy giờ.
Nghèo mà chụi học như vậy, chẳng đáng khen lắm ru!
Giải nghĩa: Lợn (tiếng quen dùng miền Bắc) heo. Nuôi thân: kiếm cái ăn nuôi sống bản thân mình. Tràng (tiếng xưa) trường. Khôi ngô: sáng sủa, có vẻ thông minh. Rãnh việc: không có việc. Lắm ru!: (tiếng xưa) làm sao!
CHỮ NHO
Thời nội thuộc nước Tàu, có mấy ông thái thú Tàu sang cai trị nước ta, mở trường học và khuyến khích việc học chữ nho.
Đến khi nước Việt Nam đã lấy lại quyền tự chủ rồi, thì chữ ấy vẫn dùng để viết công văn như chỉ dụ, chế, sắc nhà vua, tờ sức, tờ bẩm của các quan, luật lệ, đơn từ và cả những giấy má việc tư nữa, như thư tín, khế ước, chúc thư, văn tế; chữ ấy vẫn dạy trong các trường học và dùng trong việc thi cử, còn tiếng ta thì không dùng đến. Chữ ấy các nhà văn sĩ ta phần nhiều cũng dùng để làm thơ văn, sách vở nữa.
Chữ nho ở bên nước ta không đọc như người Tàu đọc, lại đọc một cách riêng của ta và đã có lắm chữ thành hẳn tiếng ta rồi. Bởi vậy ta nay cũng phải học và biết ít nhiều để nói tiếng ta và viết văn ta cho thông.
Giải nghĩa: Chữ nho: chữ của người Trung Hoa được phổ biến ở nước ta và đọc theo lối riêng của ta, và còn gọi là chữ Hán vì được truyền chính thức từ đời nhà Hán sang cai trị nước ta. Nội thuộc nước Tàu: bị nước Tàu đô hộ. Khuyến khích: khuyên nhủ, thúc giục. Công văn: giấy tờ có tính cách chung, tức của triều đình. Chỉ dụ: mệnh lệnh nhà vua ban ra. Chế, sắc: những gì vua viết ra để phong thưởng tước phẩm cho các quan. Tờ sức: tờ tập hợp, kêu gọi. Thư tín: gọi chung các thư gởi. Khế ước: giấy giao kèo của hai bên. Chúc thư: lời người chết dặn lại. Văn tế: văn đọc trước quan tài hay nắm mồ người chết. Nhà văn sĩ: người dùng lời văn để viết các loại sách truyện. Ngày nay ta gọi là nhà văn, không có tiếng sĩ ở sau (nếu đã có tiếng “nhà”)
KHÔNG NÊN HÀNH HẠ LOÀI VẬT
Một con bò kéo một cái xe chở hàng hóa rất nặng. Xe lên dốc, con bò cố sức kéo mãi, nhưng cái xe cũng không xê xích được chút nào. Người phu xe vội vàng nhảy xuống, lấy tay vỗ về con bò, rồi mồm thì nói năng dịu dàng như thúc giục, tay thì bắt vào bánh xe, cố đẩy cho xe đi. Một lát, xe lên khỏi dốc, người phu xe để cho con bò đứng nghỉ, và lại đến bên cạnh vuốt ve, ra dáng thương yêu lắm.
Người phu xe ân cần tử tế với con bò như vậy, thật là đáng làm gương cho những quân độc ác, hung tợn, cứ hay đánh đập loài vật rất thậm tệ. Loài vật không phải là vô tri vô giác, mà lại giúp ta được công kia việc nọ, ta nên trông nom, săn sóc, chớ có hành hạ đánh đập nó.
Giải nghĩa. - Cố = ráng. - Xê xích = chuyển đi, nhích lại. - Thúc giục = bảo làm việc gì cho mau lên. - Bắt = để tay vào quay bánh xe. - Vô tri vô giác = không biết, không cảm gì cả. - Hành hạ = làm khổ sở.
KHÔNG NÊN PHÁ TỔ CHIM
Thằng Sửu thấy ở trên cành cây có một tổ chim chích chòa, ba con chim mới nở, thì lấy làm mừng lắm. Nó trèo lên, bắt xuống, để chơi.
Chị nó trông thấy, ngăn lại mà bảo nó rằng: "Em ơi! Chớ nên bắt! Chim nó đang sung sướng thế mà em bắt nó, thì nó cực khổ biết là dường nào! Em thử nghĩ chốc nữa, mẹ nó tha mồi về, mà không thấy con, thì đau đớn thế nào. Vả những con chim con ấy mà em bắt về, thì dẫu em chăm chút nó thế nào, nếu nó không chết, thì cũng chẳng sao bằng mẹ nó săn sóc, nuôi nấng nó được. Thôi em ơi! Em đừng làm khổ nó vô ích, đem về trả mẹ nó. Sau nó lớn lên, nó bay, nó lượn, đẹp mắt em, nó kêu, nó hót, vui tai em, nó ăn sâu, ăn bọ thì hoa quả thóc lúa của nhà ta và của thiên hạ được đỡ hại."
Sửu nghe chị nói, lại đem cái tổ chim lên để vào chỗ cũ.
Giải nghĩa. - Tổ = ổ. - Chăm chút = săn sóc. - Lượn = bay đi bay lại nhiều lần. - Thiên hạ = cả mọi người.
ÔNG VUA CÓ LÒNG THƯƠNG DÂN
Vua Thánh Tôn nhà Lý là một ông vua nhân từ, có lòng thương dân. Một năm, trời rét lắm, vua nghĩ đến những người tù phạm phải giam ở trong ngục, bèn bảo các quan rằng: “Trẫm ở trong cung, ăn mặc như thế này mà còn rét. Những kẻ nghèo khó, những tù nhân phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc, thì khổ sở đến đâu?” Nói rồi truyền lấy chăn, chiếu phát cho tù. Lại có một hôm, đang buổi chầu, có công chúa đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng: “Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy. Vậy từ nay về sau, tội gì cũng giảm bớt đi”.
Giải nghĩa: Nhân từ: có lòng thương người. Tù phạm: người có tôi lỗi bị nhốt giữ. Trẫm: tiếng nhà vua tự xưng. Cung: nơi vua ở. Chăn: (tiếng quen dùng ở miền Bắc) mền. Buổi chầu: buổi tập hợp các quan ở chốn triều đình tâu báo các việc cho vua và nghe vua ra lệnh.
ĐƯỜNG XE LỬA CHẠY SUỐT XỨ ĐÔNG DƯƠNG.
Ở xứ Đông Dương, người Pháp đã đặt ra nhiều đường xe lửa để chở hành khách và hàng hóa cho chóng, hiện nay những đường ấy đã qua những nơi giàu có và nông dân ở rồi.
Trong các đường xe lửa ấy, con đường quan trọng nhất là đường chạy suốt cõi Đông Dương, khi nào làm xong thì các nơi, từ biên thùy nước Tàu cho đến biên thùy nước Xiêm, có thể giao thông với nhau được. Hiện nay đã làm xong được hai đoạn rồi: một đoạn về Bắc từ Na Sầm đến cửa Hàn, một đoạn về Nam từ Nha Trang đến Sài Gòn. Nhưng đợi đến khi cả đường làm xong thì có ôtô chở hành khách từ Nha Trang ra cửa Hàn và từ Sài Gòn sang Xiêm, thành thử từ Bắc vào Nam chẳng mất mấy nỗi thì giờ, đi thẳng một mạch có hai ngày rưỡi mà thôi.
Giải nghĩa: Chóng: (tiếng quen dùng ở miền Bắc) mau, gấp. Biên thùy: chỗ giáp ranh giữa hai nước. Xiêm: trước đây còn gọi là Xiêm La, nay gọi là Thái Lan. Ôtô: đọc từ tiếng Pháp (auto), xe hơi. Thành thử: cho nên. Mấy nỗi: không nhiều.
ĂN CHƠI VÀ BUÔN BÁN QUANH NĂM
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết Đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một, tháng chạp nên công hoàn toàn.
Giải nghĩa. - Quanh = suốt. - Đoan ngọ = tết mồng năm tháng năm. - Bán trăm = buộc thành bó từng trăm một mà bán. - Xá tội vong nhân = xá tội là tha tội; vong nhân là người đã chết rồi. Tục ta tin rằng người ta chết, ai có tội phải giam ở dưới địa ngục, đến ngày rằm tháng bảy thì được tha một hôm. - Chung chân = cũng như chung lưng, nghĩa là góp tiền mà buông chung với nhau.
THƠ CÁI NÓN
(Thơ cổ)
Bài học thuộc lòng
Dáng tròn vành vạnh vốn không hư,
Che chở bao la khắp bốn bờ.
Khi để tưởng nên dù với tán,
Nên ra thì nhạt (lạt) nắng cùng mưa.
Che đầu bao quản lòng tư túi,
Giúp chúa nào quên nghĩa sớm trưa.
Vòi vọi ngồi trên ngôi thượng đỉnh,
Ai ai lớn nhỏ đội ơn nhờ.
Đại ý. Bài này tả cái nón, mà trong lại ngụ ý nói một bậc bề trên có độ lượng bao dung che chở cho nhân dân, cũng như cái nón che mưa, che nắng cho mọi người vậy.
Giải nghĩa. - Vốn không hư = không dùng làm việc gì đê hạ. - Khi để = khi đội lên đầu. - Bao quản = ý nói ai đội cũng được, không riêng tư với ai cả. - Thượng đỉnh = thượng: trên; đỉnh: chỏm đầu, nói cái nón đội trên đầu.
NGƯỜI ĐI ĐƯỜNG VỚI CON CHÓ
Một người cưỡi ngựa đi đến đầu làng kia, có con chó đang ngủ giữa đường, bỗng giật mình thức dậy, đuổi theo con ngựa, sủa cắn mãi, làm cho con ngựa sợ, chạy lồng lên. Người cưỡi ngựa tức giận vô cùng, muốn giết ngay con chó, mới bảo rằng: "Tao mà có súng, thì cho mày một phát là hết cắn. Nhưng mà được, tao đã có cách làm cho mày chết." Nói xong, người kia chạy đến giữa làng, kêu to lên rằng: "Chó dại! Chó dại!" Những người xung quanh đấy, nghe tiếng kêu chó dại, liền vác gậy, vác xẻng ra đuổi đánh chết con chó.
Gớm thay cho lời nói của người ta, có khi giết hại được hơn là đồ binh khí!
Giải nghĩa. - Lồng = chạy vùng lên. - Phát = mỗi lần bắn một viên đạn. - Cắn = sủa. - Binh khí = gươm giáo, súng ống.
KHÔNG NÊN BÁO THÙ
Một hôm, một người hào phú có chuyện lôi thôi với một người thợ. Đang cơn tức giận, người hào phú lấy hòn đá ném người thợ. Người thợ nhặt hòn đá cất đi một chỗ, nghĩ bụng rằng: "Thế nào cũng có lúc tao lấy hòn đá ném được vào đầu mày".
Cách ít lâu, người hào phú chẳng may cửa nhà sa sút, của sạch không, phải đi ăn xin.
Một hôm, người thợ trông thấy người ấy ăn mặc rách rưới, đi qua trước cửa, vội vàng chạy đi lấy hòn đá, định để ném lại. Nhưng khi tay đã cầm hòn đá, anh ta lại nghĩ rằng: "Người ấy lúc còn giàu sang mà ta báo thù thì là dại, bây giờ người ấy khổ sở mà ta báo thù thì là hèn. Thôi, ta không nên báo thù." Rồi quẳng hòn đá xuống ao.
Giải nghĩa. - Hào phú = người giàu có và có thần thế. - Nhặt = lượm. - Sa sút = suy kém. - Dại = đây là có ý nói lúc người hào phú có của, có thế, mà mình báo thù thì tất nó hại được mình.
CÁC KHOA THI
Ngày xưa, học trò học chữ nho đi thi để có chân khoa mục và ra làm quan. Thi có hai khoa: thi hương và thi hội.
Những người đậu thi hương chia ra làm hai hạng: một là hương cống sau gọi là cử nhân, hai là sinh đồ sau gọi là tú tài. Còn người đậu thi hội thì có ba hạng, gọi là tiến sĩ (nhà Trần gọi là thái học sinh). Vua Lê Thái Tôn muốn cho việc thi cử thêm bề trọng thể, mới lập ra lệ xướng danh và vinh quy. Ngài lại sai khắc tên những người đậu tiến sĩ vào bia đá. Những bia đá ấy nay còn dựng ở nhà văn miếu ở Hà Nội và Huế.
Giải nghĩa: Khoa mục: thi đậu, được vua ban cho bằng sắc. Thi hương: khoa thi mở ở các địa phương lớn để tuyển Tú tài và Cử nhân. Thi hội: khoa thi mở ở kinh đô để tuyển tiến sĩ. Hương cống, cử nhân: người thi hương đậu từ số 50 trở lên. Sinh đồ, tú tài: người thi hương đậu từ số 50 trở xuống. Trọng thể: có bề thế lớn được người nể vì. Vinh quy: về làng sau khi thi đậu được đón rước linh đình.
NGƯỜI ĐI BUÔN THẬT THÀ
Anh Thương, từ khi đậu được bằng Việt Nam sơ học rồi không học nữa ở nhà coi hàng giúp mẹ. Sau đi làm công cho một cửa hàng to để học nghề buôn bán, khi đã sành nghề rồi, anh ta mới về mở một cửa hàng buôn bán tạp hoá.
Anh ta đi buôn, biết lấy điều cẩn thận, thật thà làm đầu. Tuy thấy hàng hoá bán chạy, có nhiều người đến mua nhưng không bao giờ anh ta giở trò gian ngoa để tham lấy nhiều lợi. Các bạn hàng thấy vậy, ai cũng tin bụng thật thà của anh Thương, mà đến mua rất đông. Bởi vậy cái cửa hàng của anh ta phát đạt và thịnh vượng lắm.
Giải nghĩa: Bằng Việt Nam sơ học: bằng của những học trò học hết bậc sơ đẳng ra thi và đủ điểm để được cấp phát. Bậc sơ đẳng, ngày xưa, là bậc tiểu học bây giờ. Thời Pháp thuộc, học xong sơ đẳng, nhiều người đã lớn tuổi. Tạp hoá: hàng nhiều loại. Gian ngoa: có hành động hoặc lời nói không thật để lừa người mà thu lợi cho mình. Phát đạt: tiến triển tốt, càng ngày càng thu lợi nhiều.
MỘT NGƯỜI ANH TỐT
Ông Thôi Lượng ngày xưa là người rất hiếu đễ, cha mẹ mất sớm, ông phải trông nom nuôi nấng các em. Nhà nghèo, ông phải đi viết mướn để kiếm ăn. Bấy giờ có ông Lý Sùng đang làm quan to, có quyền thế, nhiều người đến làm tôi tớ, để mong danh lợi. Người anh họ ông Thôi Lượng tên là Quang cũng đi theo Lý Sùng.
Một hôm, Quang đến bảo ông Thôi Lượng rằng: "Tội gì mà cứ viết thuê mãi, đi theo Lý Sùng thì được sung sướng. Vả nhà ông ấy lại có nhiều sách, đến đấy tha hồ mà xem." Ông đáp lại rằng: "Tôi sung sướng lấy một mình, mà để các em tôi ở nhà phải đói rét thì sao cho đành. thà rằng cứ chịu nghèo đói, mà anh em sum hợp với nhau còn hơn." Nhất định ông không chịu đi, cứ ngày ngày ra chợ viết thuê để lấy tiền về nuôi em.
Giải nghĩa. - Hiếu đễ = hiếu là lòng thảo ở với cha mẹ; đễ là lòng tử tế với anh em. - Nuôi nấng = săn sóc. - Danh lợi = cũng như là công danh phú quí. - Tha hồ = muốn bao nhiêu cũng có, mặc sức. - Đói rét = đói lạnh.
ĐẠO BẰNG HỮU PHẢI CHO CÓ THỦY CHUNG
Ngày xưa ông Dương Tiêu Sơn là bậc trung thần, thấy người Nghiệm Tung chuyên quyền làm bậy, ông bèn dâng sớ hạch tội, bị Nghiêm Tung bắt bỏ ngục. Các quan đều sợ hãi, không ai dám vào thăm. Chỉ có ông Từ Tử Dữ ngày ngày đem cho cơm rượu, Dương Tiêu Sơn bảo Từ Tử Dữ rằng: "Anh chớ hay lại thăm tôi, e rồi lại liên lụy." Từ Tử Dữ nói rằng: "Bạn hữu với nhau, chỉ quí về lúc này mà thôi. Đạo luân lý của ta cốt trọng về lòng trung nghĩa, mà bây giờ anh bị kẻ gian thần ức hiếp, lẽ nào tôi lại bỏ anh hay sao? Anh cứ để tôi đi lại thăm anh, dẫu có làm sao nữa, thì tôi cũng chẳng thiết gì quan chức đâu, xin anh đừng ngại!"
Đáng khen thay ông Từ Tử Dữ biết quên mình mà giữ cho trọn đạo bằng hữu!
Giải nghĩa. - Hạch tội = bẻ tội, bắt tội. - Liên lụy = lây vạ đến mình. - Bằng hữu = bè bạn.
LÍNH THÚ ĐỜI XƯA
(Lúc ra đi)
Ca dao
Bài học thuộc lòng
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa.
Giải nghĩa. - Lính thú = lính đi đóng đồn trên mạn ngược. - Bao vàng = bao bằng vải vàng của lính ngày trước đeo. - Nón dấu = nón chóp đỏ của lính đội ngày xưa. - Hỏa mai = ngòi súng. Đời xưa bắn súng nạp tiền phải châm ngòi mới bắn được. - Thuyền = ghe. - Ngũ liên = trống đánh từng hồi năm tiếng một, để thúc giục người ta đi cho mau.
LÍNH THÚ ĐỜI XƯA
(Lúc đóng đồn)
Ca dao
Bài học thuộc lòng
Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những dang cùng nứa, lấy ai bạn cùng.
Nước giếng trong, con cá nó vẫy vùng.
Giải nghĩa. - Lưu đồn = nơi lính đóng để phòng bị giặc cướp. - Chém = đốn. - đẵn = chặt. - Hữu thân hữu khổ = có thân là có khổ, nghĩa là đã làm người, thì ai cũng phải chịu khổ. - Dang = một thứ nứa dài dóng, người ta dùng làm lạt buộc. - Nước giếng trong, con cá nó vẫy vùng = người đi thú than thân mình không được thảnh thơi như con cá ở giếng.
KHÔNG THAM CỦA NGƯỜI
Ông Nguyễn Đình Thản người huyện Châu Lộc, tỉnh Nghệ An, tính rất thuần hậu, không bao giờ tham lam mà lấy của ai một tí gì.
Ông có mua một cái nhà cũ, định sửa sang lại để ở. Khi người cháu đào viên đá tảng, thấy dưới viên đá có hai hũ đựng mười lạng bạc, mới đem vào trình ông. Ông nói: "Đây là của người chủ cũ, không phải là của ta, chớ nên lấy. Nếu lấy là lấy của phi nghĩa. ta nên để trả người ta".
Nói rồi, ông sai đem cất đi cẩn thận. Sau quả nhiên, người chủ cũ đến xin lấy của ấy, ôgn gọi người nhà đem ra trả ngay. Người kia cảm phục cái bụng của ông, xin chia đôi để biếu ông một nửa. Ông nhất định không lấy.
Người đời bấy giờ ai cũng khen ông là một bậc quân tử đáng tôn kính vậy.
Giải nghĩa. - Đá tảng = một khối đá to. - Phi nghĩa = trái với lẽ phải. Quân tử = người có tư cách, có độ lượng hơn người thường.
KHÔNG VÌ TIỀN MÀ LÀM ĐIỀU PHI NGHĨA
Ông Mã Duy Hàn là một ông quan đời trước, có tiếng là người thanh liêm, chính trực.
Thuở ông còn hàn vi làm học trò, đến ở trọ một nhà giàu kia. Nhà ấy có thù hằn với một nhà khác, định bày mưu để vu tội cho người ta, mới đem một trăm nén vàng cho ông, bảo ông đứng ra làm việc ấy. Ông nhất định không chịu, mà bảo rằng: "Xưa nay tôi học những gì, mà bây giờ tôi lại tham của hại người như thế?" Nói đoạn, ông nghĩ bụng rằng: nhà này cậy có tiền của, toan làn những điều gian ác, không phải là nhà ta ở được, bèn dọn đi tìm nhà khác ở.
Người ta nên bắt chước như ông Mã Duy Hàn, không bao giờ nên để cho lòng tham tài lợi khiến được mình làm điều phi nghĩa.
Giải nghĩa. - Hàn vi = đói nghèo. - Vu tội = bày tội ra mà đổ oan cho người ta. - Tài lợi = của cải.
QUẢ BỨA
Năm và Sáu cùng đan tay đi với nhau. Chợt đâu bắt được một quả bứa ở giữa đường. hai cậu tranh nhau mãi. Năm thì rằng: "Quả bứa ấy của tao, vì mắt tao trông thấy trước." Sáu thì rằng: "Của tao, vì tay tao nhặt lên được." Hai cậu to tiếng cãi nhau, giơ chân, giơ tay, chực sinh sự đánh nhau. Ngay lúc ấy có cậu Cả vừa đi qua, hai cậu vội mời lại để nhờ phân xử hộ.
Cậu Cả nghe đầu đuôi, cầm ngay lấy quả bứa, bảo hai cậu đứng sang hai bên. Đoạn, cậu móc túi, lấy con dao con, bổ (cắt) quả bứa ra làm đôi, rồi làm bộ nghiêm trang mà nói rằng: "Năm, mày trông thấy quả bứa trước, mày lấy nửa vỏ này. Sáu, mày nhặt được quả bứa lên, mày lấy nửa vỏ này. Còn những múi bứa đây là phần tao cả, vì tao đã mất công khó nhọc phân xử việc này cho chúng bay."
Nói xong, cậu Cả bỏ bứa vào miệng rồi vừa đi vừa cười. Còn Năm và Sáu thì đứng trơ mắt ra đó.
Giải nghĩa. - Bắt = xí. Quả = trái. - Nhặt = lượm. - Nhau = lộn. - Đoạn = xong rồi. - Nghiêm trang = ra dáng đứng đắn oai vệ lắm.
BẢO CỬ LÀ GÌ?
Sáng hôm chủ nhật, cậu Sử nghe thấy nói có quan về tại đình làng và nhân dân nhộn nhịp rủ nhau đi bảo cử. Sử không hiểu bảo cử là gì, mới hỏi anh, thì anh giảng rằng:
"Làng ta hiện khuyết lý trưởng, vì người lý trưởng trước là ông Phú mới xin từ dịch. Nên quan về chủ trương để cho dân kén chọn một người ra thay. Dân sự kén chọn lấy người thay mặt để ra làm việc quan như vậy gọi là bảo cử."
Sử lại tò mò hỏi: " Vậy bảo cử thì người ta làm thế nào?" Anh đáp: "Ai được đi bầu và muốn bầu cho ai, thì viết sẵn tên người ấy vào một mảnh giấy, gấp lại để bỏ vào trong một cái thùng trước mặt quan. Hễ ai được nhiều người bỏ vé bầu cho mình thì người ấy được làm lý trưởng. Ấy đại để cái cách bảo cử như thế. Tựu trung còn có nhiều điều khó hơn. Nhưng thôi, đợi bao giờ đến tuổi được đi bầu rồi em sẽ biết."
Giải nghĩa. - Nhộn nhịp = chộn rộn. Khuyết = thiếu, đây là không có người làm. - Từ dịch = thôi không làm việc nữa. - Chọn = lựa. -Tò = lần. - Làm thế nào = làm sao. - Vé = giấy. - Tựu trung = tựu: tới, trung: trong; ở trong việc ấy còn có việc khác nữa.
CON HỔ VÀ CON CHUỘT NHẮT (LẮT)
Một hôm. con chuột nhắt (lắt) chạy qua gần con hổ. Hổ thò chân ra bắt. Chuột van lạy rằng: "Trăm lạy ông, thân con bé bỏng, ông tha cho làm phúc". Hổ bảo rằng: "Ừ, mày bé thế này tao chẳng thèm ăn thịt. Thôi, ta tha cho." Chuột được tha, nói rằng: "Cám ơn ông, cái ơn tái tạo ấy, con không dám quên. Chắc ông ở hiền rồi lại gặp lành!"
Được ít lâu, hổ bị mắc vào lưới. Hổ gầm, nhẩy hết sức cũng không thoát ra được, đành nằm ép một bề để đợi chết. May sao chuột nhắt ta đi qua đấy, trông thấy, chạy về gọi nhà chuột ra, cắn một lát đứt mắt lưới, hổ mới thoát được.
Xem như thế thì ở đời làm ơn không bao giờ thiệt, và nhiều khi những kẻ hèn mọn cũng có thể giúp được việc cho ta.
Giải nghĩa. - Tái tạo = tái là một lần nữa; tạo là dựng ra. Ý nói như đã chết rồi mà lại cho sống lại.
CON RÙA VÀ CON CHUỘT
Con chuột chạy nhung nhăng khắp nhà, gặp con rùa đang lịch kịch kéo cái mai, ra bộ nặng nề lắm. Chuột liền đến bên cạnh, quật đuôi, nhếch miệng, than thở hộ cho con rùa rằng: "Mày ở trong cái mai ấy khác gì như ở trong ngục tối. Khốn thay! Thế mà mày chịu được! Tao đây, cả một tòa lâu đài trang hoàng rực rỡ, trên, dưới, trong, ngoài tao chơi đâu cũng được." Rùa nghe nói, đáp rằng: "Nhà tôi ở bé nhỏ thật, nhưng là nhà của tôi; nhà bác ở cao rộng thật, nhưng là nhà của người. Nhà của mình mình ở, dầu bé nhỏ cũng còn hơn ở lâu đài của người ta.
Ta về ta tắm ao ta,
Dầu trong dầu đục, ao nhà đã quen.
Giải nghĩa. - Nhung nhăng = lung lăng. - Lịch kịch = ý nói đi ra dáng nặng nhọc lắm. - Ngục tối = chỗ giam những người có tội nặng. - Lâu đài = nhà sang trọng to lớn. - Trang hoàng = bày biện sang trọng. - Ta về ta tắm... = câu ca dao ý nói ta về ở nhà ta, dầu cho nghèo hèn thế nào cũng hơn ở chỗ khác.
ÔNG CHU VĂN AN
Ông Chu Văn An là người tỉnh Hà Đông bấy giờ, đỗ tiến sĩ về đời nhà Trần. Tính ông ngay thẳng và điềm đạm, không ham danh lợi, chỉ chăm làm cho tỏ đạo thánh hiền và trừ khử những mối dị đoan.
Ông thi đỗ rồi về mở tràng dạy học, học trò rất đông, có người làm đấn thượng thư, tể tướng, nhưng đối với ông phải giữ lễ học trò. Khi nào đến thăm thầy, vẫn phải đứng hầu. Trong bọn học trò, ai có điều gì không phải, dẫu quyền quí thế nào cũng mặc, ông quát mắng đuổi ra.
Vua nghe ông là bậc đạo đức mô phạm, triệu vào kinh cho làm quan, để dạy thái tử. Sau ông thấy chính sự trong Triều suy đồi, bọn quyền thần lắm kẻ làm bậy, ông dâng sớ xin chém bảy người gian nịnh. Vua không nghe lời. Ông bèn xin từ chức không thiết gì đến công danh quyền lợi nữa. (*)
Người trong nước ai cũng khen ông là bậc cao hiền. Khi mất, vua cho đem thờ trong Văn miếu, ngang hàng với bậc tiên nho.
Giải nghĩa. - Tiến sĩ = người thi đình đỗ. - Điềm đạm = yên tĩnh. - Dị đoan = mối lạ, những điều huyền hoặc. - Mô phạm = khuôn phép, có thể làm gương cho người ta bắt chước. - Tiên nho = những bậc hiền đời trước.
MỘT NGƯỜI KHOAN HÒA VÀ THUẦN HẬU
Ông Trình Hiệu là một nhà hiền triết đời xưa. Ông tính khí cẩn thận, hồn hậu, không hay nói xấu ai bao giờ. Ở nơi công chúng, thấy ai chỉ nghị người nào, thì ông bênh người vắng mặt hoặc ông không bắt chuyện, chờ cho người ta nói xong, ông mới thủng thỉnh mà nói rằng: "Vị tất điều học đồn đã thật", rồi ông lại kể những điều hay của người bị chỉ nghị ra cho mọi người biết. Đối với người ngoài thì thế, mà đối với chính mình, thì không bao giờ ông giận ai hoặc trách ai điều gì. Có khi đang dự tiệc, bị có người chế nhạo, ai cũng lấy làm ngạc nhiên, nhưng ông cứ để mặc, không cãi điều gì cả. Sau mới nói rằng: "Người ấy say rượu, ta cãi làm gì!"
Ông khoan hòa thuần hậu như thế, cho nên ai cũng kính phục.
Giải nghĩa. - Công chúng = chỗ có cả nhiều người ngồi. - Chỉ nghị = chê bai, bài bác. - Bắt chuyện = tiếp chuyện, đáp lại. - Thủng thỉnh = thong thả, dẽ dàng. - Chế nhạo = hủy báng.
LÀM RUỘNG PHẢI MÙA (Ca dao)
(Bài học thuộc lòng)
Mùng tám tháng tư không mưa
Bỏ cả cày bừa mà lấp lúa đi
Bao giờ cho đến tháng mười
Lúa tốt bời bời nhà đủ người no.
Giải nghĩa: Mùng tám tháng tư: đây là nói ngày âm lịch, theo nề nếp canh tác ngày xưa, lúc lúa trổ đòng đòng cần có mưa để phát triển. Lấp: lấy đất phủ lên, ở đây có ý nói bỏ đi. Tháng mười: tháng mà lúa chín, gặt đem về nhà. Bời bời: rất nhiều, bề bộn.
CÔNG VIỆC CỦA NGƯỜI LÀM RUỘNG
Ở nhà quê, quanh năm ngày tháng, ai cũng chăm về việc cày cấy. Sớm tối lo làm ăn, hết công nọ đến việc kia, không mấy khi được nhàn hạ. Khi hạt giống đã gieo xuống đất đêm ngày mong được nắng, được mưa, cho cây mạ mọc lên, đem ra cấy vào ruộng. Ruộng cấy xong, nhưng công việc đã xong đâu. Còn phải bón phân, nhổ cỏ. Lỡ khi trời nắng khô khan, phải tát nước vào ruộng cho cây lúa được mạnh mẽ, thì rồi bông lúa hạt thóc mới được tốt đẹp. Đến khi lúa chín, gặt về, đập ra, phơi khô. Bây giờ mới chắc được thóc gạo mà ăn. Nghề làm ruộng khó nhọc như thế, cho nên phải cần mẫn mới được.
Giải nghĩa: Quanh năm ngày tháng: suốt ngày, suốt tháng trong năm. Nhàn hạ: thong thả, không phải làm lụng, lo lắng gì. Cần mẫn: siêng năng, chu đáo.
KHÔNG NÊN KHINH NHỮNG NGHỀ LAO LỰC
Cậu Trác ra tỉnh lỵ học đã lâu ngày, nhân dịp Tết được nghỉ về nhà chơi. Câu thấy anh đang chân đạp máy cửi, tay đưa thoi, ra dáng vất vả, thì cậu phàn nàn với mẹ rằng: "Con trông thấy anh con làm ăn mà thương. Con chẳng làm nghề ấy. Con cố học để ngày sau được làm quan, hiển vinh sung sướng."
Bà mẹ cười mà đáp rằng: "Con cố chí học hành để mai sau làm quan, mẹ cũng mừng. Nhưng con đừng vội khinh cái nghề của anh con. Anh con có dệt vải, thì bây giờ con mới có quần áo mặc mà đi học, ngày sau con mới có quần áo mặc mà ngồi công đường. Không cứ gì một nghề dệt vải, mà tất cả bao nhiêu nghề khác làm bằng chân tay, như cha con đi cày, người thợ rèn sắt, người gồng thuê gánh mướn, người phu kéo xe... đều là những nghề có ích cả, ta đều phải kính trọng cả mới phải. Con chớ nên cậy có chút học thức mà khinh những người làm ăn vất vả."
Giải nghĩa. - Lao lực = nói những nghề làm ăn phải dùng đến sức khỏe, khó nhọc đến thân thể. - Tỉnh lỵ = chỗ quan tỉnh đóng. - Cố chí = muốn làm một việc gì cho kỳ được. - Vất vả = cực khổ.
CÁI THÚ NHÀ QUÊ VÀ CÁI THÚ KẺ CHỢ
Anh Minh và anh Ất là hai anh em con cô con cậu. Nhà anh Minh thì buôn bán ở tỉnh thành; cha mẹ anh Ất thì làm ruộng ở nhà quê.
Một hôm, Minh viết thơ cho Ất rằng: "Em cố xin phép cha mẹ mà ra tỉnh chơi. Ra đây anh sẽ đem đi xem các dinh thự to lớn, lâu đài đẹp đẽ, sẽ đem đi chơi những nơi phong cảnh rực rỡ, bam đêm đèn máy thắp sáng như ban ngày, người đi lại đông như ngày hội."
Ất đáp lại rằng: "Đến độ nghỉ hè, anh có về nhà quê chơi thì ta sẽ đi xem người làm lụng ngoài đồng, nơi thì trồng rau, nơi thì tát nước. Sáng dậy, ta đi câu cá rô, cá giếc, chiều về ta đi lấy ổi, lấy nhãn, hoặc ta ra chỗ rừng bên cạnh chùa, tha hồ cây to bóng mát, rộng rãi thảnh thơi."
Giải nghĩa. - Kẻ chợ = người dinh. - Dinh thự = nhà các quan to ở. - Lâu đài = nhà to đẹp đẽ. - Rực rỡ = đẹp đẽ, lộng lẫy. - Nghỉ hè = nghỉ bãi tràng. - CỐI GIÃ GẠO
Gạo xay ra, phải giã cho trắng, thì mới ăn được. Giã gạo đã có thứ cối lớn bằng đá, chôn xuống đất. Trên có cái cần lớn và dài, bằng gỗ. Một đầu cần, thì có cái chày, gọi là mỏ, bỏ xuống vừa vào giữ lòng cối. Chia ba một phần cần, về đằng đầu kia, thì có cái trục suốt qua cái cần, và gối đầu vào hai súc gỗ và có lỗ đục sần. Hai bên có hai tấm ván, gọi là bàn cối.
Gạo đã đổ vào cối, một người đứng, hai tay níu vào hai cái dây treo trên mái nhà. Một chân đứng lên bàn cối, một chân đạp vào cái cần mà giẫm xuống, thì đầu chày giơ lên. Khi nhấc chân lên, thì đầu chày rơi vào cối. Cứ giã như thế độ một chốc, gạo xát hột nọ với hột kia, gióc (tróc) hết vỏ mà trắng dần ra. Gạo giã xong, người ta đem giần: cám thì cho lợn ăn, tấm thì để nấu ăn cũng như cơm.
Giải nghĩa: Trục: còn gọi là cốt, mãnh gỗ chốt ngang một vật gì. Gióc: (tiếng quen dùng ở miền Bắc) tróc, bị lột lớp ngoài ra.
KẺ Ở NGƯỜI ĐI
Cơm nước xong rồi, thầy mẹ tôi, anh em, chị em tôi, cả đến kẻ ăn người ở trong nhà, đều tiễn tôi ra tận bờ sông, chỗ thuyền đậu.
Vừa ra khỏi nhà, thì trong lòng tôi tự nhiên sinh ra buồn rầu vô cùng. Từ thuở bé đến giờ, chỉ quen vui thú ở nhà, nay tôi mới biết cái cảnh biệt ly là một! Chân bước đi, mặt còn ngoảnh lại: từ cái mái nhà, cái thềm nhà, cái lối đi, cho đến bụi cây, đám cỏ, cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường!
Thuyền nhổ sào, ai nấy đều chúc cho tôi được thuận buồn xuôi gió, bình yên khỏe mạnh. Thuyền đi đã xa, mà tôi còn đứng nhìn trở lại, nhìn mãi cho đến lúc không trông thấy nhà nữa mới thôi. Ôi! Cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!
Giải nghĩa. - Biệt ly = xa cách nhau. - Quyến luyến = yêu mến, vướng vít trong lòng. - Nhổ sào = lôi sào cắm ở sông lên, để chở thuyền đi. - Trông = ngó.
THƯ TỪ
Viết thư cho ai tức là lấy chữ viết thay lời nói, tỏ ý với người ta, nghĩa là giải bày những tư tưởng, những tính tình của mình bằng chữ viết cho người ta biết.
Vậy thư viết cũng như chuyện nói, phải cho tự nhiên, nhưng đã cầm bút viết, thì lời lẽ ắt chải chuốt hơn và cẩn thận hơn là lời nói.
Thư viết lại cốt phải rõ ràng và giản dị, nghĩa là chữ dùng câu đặt, phải cho đâu ra đó, không mập mờ lầm lẫn, không nhảm nhí lôi thôi, chỉ diễn rõ tư tưởng là đủ, không cần gì phải văn hoa cho lắm.
Thư viết cho họ hàng bạn bè thì cốt phải tỏ lòng tử tế thân ái. Kẻ dưới viết cho người trên thì phải tỏ bụng tôn trọng cung kính, mà người trên đáp lại kẻ dưới thì phải có bụng yêu mến ân cần. Còn thư về việc buôn bán thì phải khúc chiết.
Giải nghĩa. - Thư = thơ. - Tư tưởng = những điều nghĩ ngợi trong bụng. - Chải chuốt = trơn tru, không lôi thôi ngúc ngắc. - Giản dị = dễ dãi. - Khúc chiết = gẫy nghĩa.
RẮN ĐẦU BIẾNG HỌC
(Thơ cổ)
Bài học thuộc lòng
Chẳng phải liu điu, vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm, rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vệt năm ba.
Từ nay Châu, Lỗ, xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
Lê Quí Đôn
Đại ý. Tục truyền xưa có người ra cho ông Lê Quí Đôn bài thơ này lúc ông hãy còn ít tuổi. Đầu đề có chữ "rắn", ông ứng khẩu làm ngay được, câu nào cũng ghép được tên một thứ rắn: liu điu, hổ lửa, mai gầm, rắn ráo, thằn lằn, hổ mang, thật cũng là một nhà làm thơ có tài vậy.
Giải nghĩa. - Rắn = cứng. - Biếng = nhác. - Liu điu = rắn nước; đây dùng nghĩa bóng nói người hèn hạ. - Thẹn đèn, hổ lửa = ý nói học hành dốt nát, trông thấy đèn lửa mà thẹn thò, xấu hổ. - Nay thét, mai gầm = ý nói không chịu học, làm cho cha phải quở mắng luôn. - Vệt năm ba = nói phải đòn trên lưng, còn lằn. - Châu, Lỗ = trỏ đạo Khổng, Mạnh; ông Khổng tử ở nước Lỗ, ông Mạnh tử ở nước Châu. - Thế gia = nói một nhà ông cha đời trước làm nên danh giá.
RĂN KẺ THAM
Người đời ngay thật là khôn,
Gian tham ghen lận sao còn được hay ?
Mưu thâm chất nặng, chứa đầy,
Nhà đều ăn cả, tội nay một mình.
Người làm một việc chẳng minh,
Cũng khi họa đến không dành riêng ai.
Càng gian, càng giảo ở đời,
Lại càng khốn đốn nhiều tai âu sầu.
Dù cho giàu có đến đâu,
Cũng như nước dốc qua hầu tràn đi.
Trích ở sách ÂM-CHẤT
Giải nghĩa. - Lận = keo cúi, bủn xỉn (bỏn xẻn). - Mưu thâm = dùng những mẹo sâu sắc để lừa gạt người ta. - Chẳng minh = không được rõ ràng. - Tai = những điều xảy đến làm cho mình khổ sở. - Cũng như nước dốc qua hầu tràn đi = câu này ý nói những của gian tham mà được, thường khi không được bền, tụ rồi lại tán ngay như nước chảy qua chỗ dốc vậy.
CỐ ALEXANDRE DE RHODES VÀ VIỆC ĐẶT RA CHỮ QUỐC NGỮ
Ngày xưa, ở nước ta, muốn viết tiếng ta, thì người ta dùng một lối chữ goi là “chữ nôm” do chữ ở nho ra. Những chữ ấy khó đọc lắm.
Đến khi các ông cố đạo ở Châu Âu sang nước Việt Nam, các ông ấy mới lấy những chữ cái vần la tinh mà đặt ra chữ “quốc ngữ” tức là chữ ngày nay trong nước ta đã thông dụng.
Các ông cố người Pháp và nhất là cố Alexandre de Rhodes có công trong việc đặt ra lối chữ ấy lắm.
Cố Alexandre de Rhodes ở bên nước Việt Nam ngoại bảy năm. Ông có viết nhiều sách về nước Nam, nhất là quyển lịch sử đất Bắc Việt và một tự điển tiếng ta dịch ra tiếng la tinh và tiếng Bồ Đào Nha. Các sách của ông là những sách in đầu tiên bằng chữ quốc ngữ.
Giải nghĩa: Cố đạo: tiếng gọi những người chức sắc trong đạo Thiên chúa sang truyền đạo ở Việt Nam. La tinh: tiếng nói của người La Mã xưa, vốn là gốc của tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha v.v… Thông dụng: dùng rộng rãi trong nước. Tự điển: sách chép đầy đủ tiếng của một nước với sự giải nghĩa rõ ràng.
TUẦN PHU
Tuần phu là trai tráng trong làng cắt ra để canh phòng cho dân. Họ ngồi trong điếm đánh trống cầm canh, hoặc họ đi lùng đây đó, xó chợ, đầu đình, ngoài đồng, trong ngõ, để rình bắt những kẻ gian phi, trộm cướp. Vì có tuần phu nên của cải ta để trong nhà, không sợ mất cắp, thóc lúa ở ngoài đồng không sợ gặt trộm; ngày ta được yên tâm làm ăn, đêm ta được vững dạ ngủ ngon. Thật là việc trị an chung cho cả dân làng, mà tuần phu phải sớm khuya khó nhọc. Có khi họ liều mình, xông vào chỗ đầu gậy, mũi dao, nguy hiễm đến nỗi phải bị thương hay bỏ mạng. Vậy ta há lại không biết công cho họ ru?
Giải nghĩa: Điếm: trạm gác, nhà nhỏ để những người tuần phu ngồi canh. Đi lùng: đi khắp nơi tìm kiếm phát hiện những gì đáng nghi ngờ. Gian phi: kẻ làm điều trái phép. Trị an: giữ gìn an ninh, coi sóc cho được yên ổn. Bỏ mạng: chết. Ru: sao? (tiếng quen dùng ngày xưa) để kết thúc một câu có giọng tán thán.
MỘT TẤM LÒNG TỪ THIỆN
Bà phước Félicienne sang Việt Nam năm 1888, coi ở nhà thương Sóc Trăng, đến năm 1923 thì mất.
Trong ba mươi lăm năm trời, bà đem tấm lòng từ thiện mà yên ủi biết bao nhiêu người yếu đau khổ sở. bao giờ bà cũng tận tâm kiệt lực làm việc bổn phận, không nghĩ gì đến công lao khó nhọc. Kẻ già người yếu, trẻ mồ côi, người tàn tật, ai đã được bà trông nom cho, đều hàm ơn bà cả.
Sau, vì bà trông nom nuôi nấng những người có bệnh phong, cho nên bà mắc phải bệnh ấy mà chết. Bà đem bao nhiêu tâm trí vào việc làm phúc, quên cả tính mạng để cứu giúp kẻ khốn cùng.
Giải nghĩa. - Bà phước = đàn bà đi tu bên đạo Thiên chúa, làm phúc ở các nhà thương. - Từ thiện = có lòng thương yêu người. - Tận tâm kiệt lực = hết lòng hết sức. - Trông nom = săn sóc. - Phong = cùi.
MỘT TẤM LÒNG TỪ THIỆN
(Tiếp theo)
Lễ cất đám bà Félicienne làm tại Sóc Trăng ngày hai mươi ba tháng tám năm 1923. Các thân hào Pháp Việt trong bản hạt, các đại biểu những tỉnh Nam Kỳ và cả những người đã chịu ơn bà trong bấy nhiêu năm, đều đi đưa đám rất đông.
Có một đội lính tập đi hộ tang. Đáng lẽ có một ông quan to thay mặt Nhà nước đọc bài điếu tang để kể công đức bà đã vì hết lòng giúp người mà chết. Song vì khi lâm chung bà có trối lại rằng lễ tống táng làm cho giản dị đơn sơ, nên lúc hạ huyệt không có bài điếu tang.
Tuy vậy, mà lễ cất đám bà rất là long trọng, vì người đi đưa thật đông mà ai ai cũng lấy làm cảm động và thương tiếc bà lắm.
Giải nghĩa. - Thân hào = những người giàu sang trong hạt. - Bản = bổn. - Đại biểu = người thay mặt. - Điếu tang = bài văn viếng. - Lâm chung = lúc hấp hối, sắp chết. - Hạ huyệt = để xuống hố.
ÔNG TÔI
Ông tôi năm nay đã ngoài sáu mươi tuổi. Đầu râu tóc bạc, da đã giăn (nhăn), má đã lõm (cóp), lưng đã còng, đi đâu phải chống gậy.
Ông tôi không phải làm việc gì nặng nhọc nữa. Thường ở nhà coi sóc cho ba mẹ tôi và dạy chúng tôi. Thỉnh thoảng ông lại kể chuyện cổ tích cho chúng tôi nghe, chúng tôi lấy làm thích lắm. Những khi đi học về, thường thường tôi lại đem những chuyện nhà tràng nói cho ông nghe. Ông tôi lại nhân đấy mà giảng giải cho tôi học được nhiều điều khác nữa.
Giải nghĩa: Giăn (tiếng miền Bắc) nhăn, có nhiều nếp. Lõm: trũng xuống. Còng: còm, cong xuống, gập lại. Cổ tích: chuyện đời xưa. Nhà tràng: nhà trường (tràng là tiếng quen dùng ngày xưa).
BÀ RU CHÁU
Trưa mùa hè, trời nắng chang chang, gió im phăng phắc. Trong nhà, ngoài ngỏ, vắng vẻ, tỉnh mịch. Ở một chái bên, bà ôm cháu vào lòng. Hai bà cháu nằm trên cái cõng, đưa đi đưa lại, tiếng kêu kẽo cà kẽo kẹt, theo một điệu.
Bà cất tiếng hát ru:
“Cái ngủ mày ngủ cho lâu,
“Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về…”
Cháu nghe êm tai, ra chừng thiu thiu ngủ, mà bà cũng ra dáng lim him hai con mắt…
“Ừ, cái ngủ mày ngủ cho say,
Mẹ mày vất vả chân tay tối ngày.”
Giải nghĩa: Một điệu: cứ vậy, không thay đổi. Thiu thiu ngủ: sắp ngủ. Lim him: ý nói đôi mắt chập chờn sắp ngủ (có nơi gọi là lim dim, hoặc liu riu, líu ríu…)
CHUYỆN ANH EM HỌ ĐIỀN
Đời xưa có chuyện anh em họ Điền, cha mẹ mất sớm, ba anh em ở với nhau. Anh cả và anh hai lấy vợ rồi, vẫn cứ ở chung một nhà, mà không có điều gì. Đến khi người con thứ ba lấy phải người vợ không hiền, thấy sự ăn tiêu chung chạ như thế, sợ hai anh chiếm giữ mất quyền lợi của mình, mới xui chồng xin ra ở riêng. Người chồng thấy vợ nói ra nói vào, cũng chiều lòng mà nói với hai anh xin chia của ra.
Hai anh trước còn không thuận, sau thấy vợ chồng người em cứ kêu nài mãi, bèn đem của cải chia ra làm ba phần. Lúc ấy ở trước sân có một cây cổ thụ, xưa nay vẫn tươi tốt. Ba anh em định ngày hôm sau thì chặt xuống để chia ra mỗi người một phần cho đều.
(Còn nữa)
Giải nghĩa. - Hiền = người có đức hạnh, biết ăn ở phải đạo. - Nói ra nói vào = nay nói, mai nói để cho người ta xiêu lòng. - Cổ thụ = cây đã lâu đời.
lấy = cưới
CHUYỆN ANH EM HỌ ĐIỀN
(Tiếp theo)
Sáng ngày hôm sau, người anh cả gọi hai em đến để đi chặt cây, thì thấy cây đã chết khô rồi. Người anh cả mới ôm cây mà khóc. Hai em đều nói rằng: "Cây kia đáng giá bao nhiêu mà anh thương tiếc như thế?" Người anh nói: "Nào có vị gì cây này mà ta khóc đâu. ta nghĩ ba anh em ta cùng một cha mẹ sinh ra, khác gì cây kia một gốc sinh ra bấy nhiêu cành lá, rườm rà tốt tươi là dường nào! Chỉ vì hôm qua ba anh em ta định chặt nó xuống đề chia cho nhau, có lẽ nó không nỡ sống mà chịu phân ly (*) ra, cho nên mới một đêm mà đã chết khô. Nếu anh em ta phân ly ra, thì rồi cũng giống như cây này mà thôi. Bởi thế cho nên ta động lòng thương mà khóc".
Người em thứ ba nghe anh nói vậy, trong lòng cảm động, nghĩ rằng mình không bằng giống thảo mộc, mới ôm anh mà khóc rồi tình nguyện xin cứ ăn chung ở chung như cũ.
Từ đó về sau, họ Điền cứ đời đời ở với nhau rất là hòa thuận, tiếng khen khắp cả thiên hạ.
Giải nghĩa. - Phân ly = phân là chia; ly là lìa. Phân ly là chia rẽ nhau ra. - Thảo mộc = cây, cỏ. - Tình nguyện = tự mình thuận xin. Cổ thụ = cổ thọ.
----------
(nt: Bài "Chuyện anh em họ Điền" đã đăng trong chuyên mục "Mỗi ngày một mẩu chuyện" - Nhưng nay xin đưa lại vào trong "Quốc Văn Giáo Khoa Thư" nhằm đảm bảo tính liên tục của quyển sách...)
Chú thích :
(*) Bản của Nhà xuất bản Thanh niên, năm 2000, in là "phân li" và được giải nghĩa: Phân li: chia lìa.
CÓ CHÍ THÌ NÊN
Ông Châu Trí lúc bé thông minh và chăm học lắm. Năm mới lên mười hai tuổi, đã biết làm văn, nhiều người đều khen ngợi.
Song nhà nghèo, ông vẫn phải đến ở nhờ tại chùa Long Tuyền. Không có tiền mua dầu thắp đèn, ông phải đi quét lá đa, tối đến đốt lửa lên mà học. Ông học đến năm mười sáu tuổi đã đỗ giải nguyên.
Thiên hạ rủ nhau đến mừng và tặng ông một bài thơ:
Một anh học trò kiết chùa Long Tuyền,
Ai ngờ nay lại đỗ giải nguyên,
Ở đời chẳng có việc gì khó,
Người ta lập chí phải nên kiên.
Giải nghĩa. - Giải nguyên = đỗ đầu kỳ thi hương, ta còn gọi là thủ khoa. - Lập chí = định bụng cố làm việc gì cho kỳ được. - Kiên = bền, làm một việc gì phải bền lòng, không nản chí.
đa = da.----------
Khoa bảng ngày xưa:
- Thi Hương :
. Giải nguyên.
. Hương cống.
. Sinh đồ.
- Thi Hội :
. Hội nguyên.
. Thái học sinh.
. Phó bảng.
- Thi Đình :
. Đình nguyên.
. Trạng nguyên.
. Bảng nhãn.
. Thám hoa.
. Hoàng giáp.
. Đồng tiến sĩ xuất thân.
ĐỜI NGƯỜI
Một người đương đi ở trên núi. Đến một nơi, có hòn đá lăn ra hết cả lối đi, không chen chân vào đâu mà bước qua được nữa.
Người ấy cố hết sức đẩy hòn đá, nhưng hòn đá nặng lắm, đẩy làm sao cho xuể. Đành chịu bó tay ngồi một chỗ mà lo nghĩ: "Nếu ta cứ phải ở đây, trời tối đến, cơm nước không có, chỗ nằm cũng không, hùm beo ra nó vồ mất thì còn gì là tính mạng!"
Khi người ấy đương nghĩ thế, có một người khác cũng muốn đi qua đấy, hết sức đẩy hòn đá, nhưng hòn đá cũng chẳng chuyển.
Sau, năm bảy người nữa đến, người nào cũng chực đẩy hòn đá để lấy lối đi, nhưng hòn đá vẫn trơ trơ chẳng ai lay chuyển được. Bấy giờ có một người gọi cả bao nhiêu người kia lại mà bảo rằng:
"Anh em ta thử họp sức nhau vào cùng đẩy hòn đá này xem sao."
Bấy nhiêu người đều ùa nhau vào đẩy, thì hòn đá lăn ra bên đường và bấy giờ mới có lối đi, ai về nhà người nấy.
Ấy cái cuộc đời người cũng như thế. Người đi đường ấy tức là người ta, sự đi đường tức là đời người, hòn đá tức là những chuyện khó khăn ở đời. Thả sức ra, một người không làm được gì cả, có họp sức nhau lại mới làm nên công kia việc nọ.
Giải nghĩa. - Xuể = đủ sức, đủ tài làm một cái gì. - Tính mạng = cũng nghĩa như đời. - Thả sức = dùng hết sức để làm một việc gì.
họp = hiệp
ùa = hùa
CÂY SEN
(Ca dao) Bài học thuộc lòng
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Giải nghĩa: Đầm: (tiếng quen dùng ở miền Bắc) ao, bàu, chỉ vũng nước lớn mà không sâu. Bông: hoa. Nhị: hay nhụy, phần giữa hoa, thường có mùi thơm
TRUYỆN HAI BÀ TRƯNG
Bà Trưng Trắc là con gái một quan lạc tướng, lấy ông Thi Sách là lạc tướng một châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên. Bà giận vì quan thái thú Tàu là Tô Định chính sách tàn bạo, bèn đứng lên xướng xuất cùng với em là Trưng Nhị, chồng và các tù trưởng trong nước nổi lên. Bà đánh đâu được đấy; quân Tàu phải chạy trốn cả. Bà bèn tự xưng làm vua, đóng đô ở Mê Linh, thuộc tỉnh Phúc Yên bây giờ.
Nhưng hai năm sau, vua Tàu sai một viên tướng tên Mã Viện đem một đạo quân sang đánh nước ta. Bà Trưng Trắc bị thua nhiều lần, sau cả hai chị em đều chết. Nước ta lại phải phụ thuộc nước Tàu như trước.
Hai chị em bà Trưng thực là hai vị Nữ anh hùng đầu tiên ở nước ta.
Giải nghĩa: Lạc tướng: vị tướng cầm đầu một châu, một quận ngày xưa của người Lạc Việt, tức người Việt Nam cổ. Thái thú: là một chức quan do người Trung Hoa ngày xưa đặt ra để cai trị dân ta. Chính sách: những đường lối cai trị. Xướng xuất: chỉ bảo cho người ta noi theo. Tù trưởng: người cầm đầu một bộ lạc. - NGÀY GIỜ ĐI HỌC
Trừ ngày chủ nhật và thứ năm, mỗi tuần lễ tôi đi học năm ngày. Mỗi ngày học hai buổi: buổi sáng và buổi chiều. Sáng học ba giờ, chiều học hai giờ rưỡi. Buổi nào cũng có nghỉ mười lăm phút vào khoảng giữa buổi, để học trò ra chơi cho giải trí.
Ấy ngày giờ tôi học là thế, còn cách học tập thì mỗi giờ thầy dạy một bài, mà bài nào cũng có ích cả. Thầy chịu khó dạy, tôi chăm chỉ học, chẳng khi nào bỏ phí thì giờ.
Giải nghĩa: Giải trí: để trí óc được thảnh thơi, thư giản.
KHUYẾN HIẾU ĐỄ
(Bài học thuộc lòng)
Cha sinh, mẹ dưỡng,
Đức cù lao lấy lượng nào đong,
Thờ cha mẹ ở hết lòng,
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường.
Chữ đễ nghĩa là nhường,
Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên.
Ghi lòng tạc dạ chớ quên,
Con em phải giữ lấy nền con em.
Giải nghĩa: Dưỡng: nuôi nấng. Đức cù lao: nói về sự nặng nhọc của cha mẹ trong việc nuôi con. Lấy lượng nào đong: không thể nào đong, đếm, tính toán được. Luân thường: chỉ những điều cơ bản mà con người phải biết để sống có đạo lý. Nền: vị trí đã được quy định.
VIỆC CÀY CẤY
(Bài học thuộc lòng)
Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Giải nghĩa: Phong lưu: sống no đủ, thong thả. Đồng cạn: đồng dất cao, không có nước. Đồng sâu: đồng đất thấp, thường có nước.
QUYỂN GIA PHẢ (GIA PHỔ)
Hôm nọ nhà có giỗ, tôi thấy cha tôi lấy một quyển sách ở tủ ra xem. Tôi hỏi. Cha xem quyển gia phả. – Gia phả là gì? Gia phả là quyển sách để chép rõ tên tuổi, đức hạnh và công trạng tổ tiên.
Vậy hôm nay cha xem để làm gì? Xem cho biết rõ danh hiệu của ông để mà khấn, vì ngày mai là ngày giỗ ông.
Giải nghĩa: Giỗ: ngày kị, ngày tổ tiên qua đời và nay làm lễ cúng. Tổ tiên: những ông bà ngày xưa của một dòng họ. Danh hiệu: tên và hiệu. Người xưa ngoài tên cúng cơm do cha mẹ đặt, còn có nhiều tên, hiệu khác khi ra đời, nhất là khi các cụ là nho sĩ khoa bảng. Khấn: quì hoặc đứng thành khẩn trước bàn thờ chắp tay lẩm nhẩm nói những lời tri ân hoặc cầu xin gởi đến người quá cố.
LÀNG TÔI
Làng tôi ở gần tỉnh. Xung quanh làng có lũy tre, đứng ngoài không nom thấy nhà cửa. Đầu làng cuối làng có cổng xây bằng gạch. Trong làng có nhà cửa phần nhiều là nhà lá. Nhà nào cũng có sân, có vườn, hoặc có ao nữa, xung quanh có hàng rào tre. Ngoài vườn thì trồng rau, khoai cùng các thứ cây có quả.
Đường sá thì có con đường chạy thẳng qua làng là rộng, còn thì những lối đi hẹp, khúc khuỷu quanh co. Được ít lâu nay, đường ngõ lát gạch khắp cả, nên mới sạch sẽ, chứ trước hễ trời mưa là lầm lội dơ bẩn, đi lại rất khó chịu.
Giải nghĩa: Lũy: bờ đất có trồng tre để làm hàng rào. Cổng: cửa ngõ. Quả: (tiếng phổ biến ở miền Bắc) trái. Khúc khuỷu: không thẳng mà gập gẫy từng đoạn. Lầm lội: có bùn nước trộn lẫn.
CHỌN BẠN MÀ CHƠI
Thói thường “Gần mực thì đen…”
Anh em bạn hữu phải nên chọn người.
Những người lêu lổng chơi bời,
Cùng là lười biếng ta thời tránh xa.
Giải nghĩa: Hữu: cũng có nghĩa là bạn bè. Lêu lổng: la cà đây đó, không làm việc, không nghề nghiệp.CON CHÓ VÀ MIẾNG THỊTVÌ NHỚ MÀ BUỒN
Một hôm, một con chó vào hàng cơm ngoạm trộm miếng thịt. Người nhà hàng trông thấy, vác gậy đuổi theo. Con chó đâm đầu chạy. Khi chạy đã xa, đến một cái cầu, con chó đứng lại để ăn. Nhìn xuống sông, thấy có một miếng thịt to hơn miếng thịt đang ngậm trong miệng. Nó liền nhả ngay miếng thịt ấy ra, nhảy xuống sông định lấy miếng thịt ở dưới nước. Nhưng nào có lấy được! Chẳng qua chỉ là bóng miếng thịt nước chiếu lại mà thôi. Còn miếng thịt, dòng nước cuồn cuộn kéo đi, con chó hết sức đuổi theo cũng không sao lấy lại được nữa.
Ôi! Con chó lấy trộm thịt là có tội, con chó nhả bỏ miếng thịt lại là khờ dại. Thả mồi bắt bóng, bóng bắt chẳng được, mồi kia không còn, chẳng là đáng tiếc lắm sao! Người ta ở đời chẳng nên đứng núi này, trông núi nọ, đã được voi lại còn đòi tiên. Cái gì đã nắm chắc trong tay, ta chớ nên buông ra mà chực những cái hão huyền đâu đâu.
Giải nghĩa. - Cuồn cuộn = dòng nước chảy nhanh trông như cuốn mất đi vậy. - Khờ = hớ hênh, bị lừa. - Đứng núi này trông núi no, được voi đòi tiên = hai câu tục ngữ, ý nói đã được thế này lại còn đòi thế khác.
hàng = quán. - ngoạm = táp. - hão huyền = bông lông.
COM MÈO VÀ CON CHUỘT
Một chú chuột ló đầu ra ngoài tổ, trông thấy một bác mèo chợt đi qua. Chú chuột đưa lời trách oán rằng: "Bác thật là độc ác! Họ nhà chúng tôi có dám trêu đâu đến các bác, mà sao các bác cứ rình đêm, rình ngày để bắt bớ chúng tôi. Bác phải biết ở đời ác nghiệt lắm có hay gì. Phải có chút lòng nhân nghĩa mới sung sướng được." Mèo bảo: "Ôi chao! Chú bé khôn ngoan lắm! Chú có nói, bây giờ tôi mới biết ở đời nhân nghĩa cần như thế! Tôi xin nghe lời chú. Từ rày tôi thề không dám động chạm đến họ hàng chuột nhà ta nữa. Chú ra đây, chú đừng sợ gì. Tôi đã có lòng yêu chú, thương chú lắm đấy."
Chuột nghe lấy làm bùi tai, liền chạy lại chơi với mèo, cái tình giao kết tưởng bắt đầu thân thiết ngay tự đây. Nào ngờ chuột vừa ra khỏi tổ, mèo nhảy ngay lại vồ lấy, cắn chết ăn thịt.
Đời nào mèo lại tha bắt chuột!
Giải nghĩa. - Trêu = gợi cái tức, chọc cái tức của người ta ra. - Nhân nghĩa = lòng công bằng và thương yêu người. - Động chạm = ý nói không dám làm hại chuột nữa. - Bùi tai = nghe cái gì lấy làm vui tai, vui bụng. - Giao kết = làm bạn bè với nhau.
tổ = ổ
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng dải Ngân hà,
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.
Giải nghĩa. - Chênh chếch = nghiêng nghiêng. - Ngân hà = ở trên trời có dải dài nhiều sao li ti, trông sang sáng, ta gọi là sông Ngân hà. - Tinh đẩu = sao đại hùng tinh ở gần sao bắc cựa. - Tào khê = tên cái khe bên Tàu.
Chuôi = cán
BUÔN BÁN PHẢI THẬT THÀ
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng
Tin nhau buôn bán cùng nhau,
Thiệt, hơn, hơn thiệt trước sau như nhời.
Hay gì lừa đảo kiếm lời,
Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang.
Theo chi những thói gian tham,
Pha phôi thật giả, tìm đường dối nhau.
Của phi nghĩa có giàu đâu,
Ở cho ngay thật, giàu sau mới bền.
Giải nghĩa. - Pha phôi = lẫn lộn, điên đảo. - Của phi nghĩa = của lấy không hợp với lẽ công bằng.
nhời = lời
ĐỨC KHỔNG TỬ
Đức Khổng Tử là ông thánh chí tôn trong đạo Nho. Ngài dạy người ta cách ăn ở thế nào là phải đạo luân lý, cùng là hợp với lẽ phải của trời đất. Người nước Tàu và người nước ta đều học theo đạo của ngài.
Thuở ngài còn sống, ngài đã làm quan nước Lỗ, sau ngài đi khắp nhiều nước bên tàu, để đem thi hành cái đạo của ngài, nhưng vì các vua đời bấy giờ không biết nghe lời ngài, cứ lo việc đánh nhau, cho nên ngài lại trở về nước Lỗ, làm sách và dạy học trò.
Học trò của ngài đông đến hơn ba nghìn người, mà ai cũng tôn kính và yêu mến ngài như cha. Đến khi ngài mất, các học trò thương nhớ vô cùng, đều để tâm tang ba năm nữa mới thôi. Trong học trò ngài, có thầy Tử Cống nhớ ơn ngài, làm nhà gần bên mộ mà ở đến sáu năm.
Về sau, các vua chúa đời nào cũng sùng bái ngài. Đến ngày nay ở các làng thì có văn chỉ, ở các tỉnh thì có văn miếu, chỗ nào cũng thờ ngài một cách rất kính trọng.
Giải nghĩa. - Chí tôn = rất tôn, tôn quí hơn cả. - Vô cùng = không bao giờ hết. - Tâm tang = để tang trong bụng, chớ không mặc đồ tang. - Sùng bái = tôn trọng, kính phục.
hợp = hiệp
ÔNG MẠNH TỬ
Ông Mạnh Tử là học trò cháu đức Khổng Tử. Ông cũng toan đem đạo của ngài ra mà thi hành, nhưng vì người thời bấy giờ không ai biết dùng. Ông bèn làm ra sách Mạnh Tử để dạy người ta những điều nhân nghĩa. Ông sở dĩ thành một người có đức vọng như thế, là vì ông biết lập chí từ lúc hãy còn trẻ.
Thuở ông còn nhỏ, cha mất sớm, mẹ nuôi cho đi học, ông thường bỏ về nhà chơi. Một hôm, bà mẹ thấy vậy, bèn lấy dao cắt đứt khung cửi (không cưởi) của ba đang dệt mà bảo rằng: "Người ta phải lập chí cho bền thì mới nên được người có đức hạnh, nếu không thì có khác gì như tấm vải đang dệt chưa xong này, mà đem cắt đứt đi, thì còn dùng làm gì được nữa."
Ông nghe lời ấy, quyết chí học tập, suốt được cái đạo của thánh nhân, thành một bậc đại hiền trong đạo Nho vậy.
Giải nghĩa. - Sở dĩ = tiếng nói đệm, nói lót, cũng như nói bởi đâu, - Đức vọng = có danh tiếng to, công đức to, có thể làm gương cho người ta bắt chước. - Lập chí = định cái chí của mình, không thay đổi nữa. - Suốt = hiểu hết được, bết đến nơi, đến chốn. - Thánh nhân = đây là nói đức Khổng Tử.
bấy giờ = lúc đó
VÀO HÈ
(Thơ cổ)
Ai xui con cuốc gọi vào hè.
Cái nóng nung người, nóng nóng ghê!
Ngõ trước, vườn sau um những cỏ.
Vàng phai, thắm nhạt ngán cho huê.
Đầu cành kiếm bạn, oanh xao xác.
Trong tối đua bay, đóm lập lòe
May được nồm nam cơn gió thổi.
Đàn ta, ta gảy khúc Nam nghe.
Đại ý. Bài thơ này tả cái cảnh mùa hè: hai câu mở đầu nói mùa hè nóng nực lắm, tiếng cuốc kêu khắc khoải; bốn câu giữa nói hẳn vào bài: cây cối um tùm, hoa nhạt sắc gần tàn, oanh kêu xao xác, đom đóm lập lòe. Hai câu cuối đóng bài nói mùa hè mà được cơn gió mát thổi thì lấy làm sung sướng lắm.
Giải nghĩa. - Vào hè = bắt đầu mùa hè, đối với ra hè là hết mùa hè. - Oanh = chim vàng anh. - Nồm nam = gió thổi hướng đông nam lại. - Gảy khúc Nam = đây nói bài đàn hát cổ về gió phương nam thổi.
cuốc gọi = quấc kêu. - nung = đốt. - thắm = đỏ. - nhạt = lạt. - cành = nhành. - lập lòe = lập lòa. - Đàn = đờn. - gảy = khảy.
MÙA THU NGỒI CÂU CÁ
(Thơ cổ)
Bài học thuộc lòng.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc, theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Từng mây lơ lửng, trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đợp động dưới chân bèo.
Nguyễn Khuyến
Đại ý. Bài này tả cái cảnh một ông già, đang ngồi trong chiếc thuyền con mà câu cá ở dưới ao. Trời xanh, nước biếc, lá vàng rụng, gió hiu hiu thổi là cái cảnh mùa thu; tựa gối, ôm cần, khách vắng là cái cảnh nhàn hạ.
Giải nghĩa. - Trong veo = trong suốt. - Làn = gợn nước theo chiều gió đưa về một ngả nào. - Đưa vèo = lá rụng xuống mặt nước, gió thổi chạy nhanh như thuyền.
THƠ CON MÈO
(Thơ cổ)
Bài học thuộc lòng.
Cũng thì nanh vuốt, kém chi đâu,
Chửa biết mèo nào cắn mỉu nào.
Gióng lịnh tì, hưu, tài nhảy nhót,
Ra oai hùng, hổ, tiếng bào hao.
Ngắm xem biết mẹo trèo từ thấp,
Khúm núm thu hình thoắt nhảy cao.
Chỉ quyết phen này vồ lấy cống,
Rồi lên đài các sẽ nghêu ngao.
Đại ý. Trong bài, một con mèo có ý nói thi tài ra, thì chẳng chịu kém mèo nào, vì cũng nhảy nhót, cũng kêu gào, cũng mưu mẹo như các mèo khác. Nếu mèo bắt được chuột thì được thỏa lòng lắm. Bài này lại ngụ ý nói một người học trò khoe tài quyết chí thi cho đỗ mới nghe; tiếng cống trong câu thứ bảy chỉ cống sinh tức là cử nhân đời trước.
Giải nghĩa. - Mỉu = cũng là mèo, đọc ra mỉu cho thành âm trắc. - Hưu = loài mãnh thú. - Hùng = con gấu. - Bào hao = tiếng gào thét. - Cống = chuột cống. - Nghêu ngao = ý nói kêu tự do, ra dáng đắc chí lắm.
THƠ CÁI CHỔI
(Thơ cổ)
Bài học thuộc lòng.
Lời chúa vâng truyền xuống ngọc giai,
Cho làm cho lịnh tướng quét trần ai.
Một tay vùng vẫy trời tung gió,
Bốn cõi tung hoành đất sạch gai.
Ngày vắng rủ mây cung bắc Hán,
Đêm thanh dựa nguyệt chốn lâu đài.
Ôm lòng gốc rễ lâu càng giãi,
Mòn mỏi lưng còn một cái đai.
Đại ý. Bài này tả một cái chổi quét bụi bẩn khắp mọi nơi, quét sạch rồi thảnh thơi nghỉ một chỗ, và cứ quét mãi đến cùn, mòn hết cả mà không quản ngại. Nhưng tuy là cái chổi, mà rõ ra khí tượng một anh hùng trí dũng, lúc tiến thì ngang dọc đông tây, lúc thoái thì thảnh thơi đài các, bao giờ cũng hết một lòng vì vua vì nước.
Giải nghĩa. - Ngọc giai = thềm ngọc, chỉ thềm nhà vua chúa. - Trần ai = bụi bậm, chỉ khoảng thế gian. - Tung hoành = dọc ngang, ý nói quét ngang, quét dọc đủ các chiều. - Ngày vắng rủ mây cung bắc Hán = câu này nói ban ngày cái chổi để thảnh thơi một chỗ. - Ôm lòng gốc rễ lâu càng giãi = câu này ý nói cái chổi quét mãi, mỗi ngày một cùn, còn trớ cái gốc ở bên trên ra.
ÔNG TÔ-HIẾN-THÀNH
Ông làm quan về cuối đời nhà Lý. Tính người trầm trọng, cẩn thận, tài kiêm văn võ. Làm tướng đi đánh giặc, thì thương yêu sĩ tốt, bênh vực dân sự, đánh đâu được đấy, quân giặc nghe tiếng đều phải kinh sợ. Làm quan, thì lo sửa sang việc chính trị, mở mang sự học hành, trừ bỏ những kẻ gian nịnh. bao giờ ông cũng quên mình mà lo việc nước.
Khi vua mất, ông làm phụ chính giúp tự quân hãy còn thơ ấu. Bấy giờ có một bà Thái-hậu muốn bỏ tự quân mà lập con mình, cho người đem vàng bạc đút lót cho ông. Ông nhất định không nghe, cứ một niềm giữ lòng trung thành, hết sức giúp ấu chúa, theo lời dặn của tiên quân.
Đến khi ông phải bệnh nặng, có người Võ Tán Đường đêm ngày chầu chực hầu hạ, có ý muốn được ông cử mình lên thay. Nhưng đến khi bà Hoàng Thái hậu đến thăm, hỏi ai có thể thay được ông. Ông cử quan đại phu Trần Trung Tá. Bà Thái hậu ngạc nhiên hỏi sao ông không cử Võ Tán Đường ? - Ông tâu rằng: "Nếu ngài hỏi người hầu hạ thì tôi xin cử Võ Tán Đường, nhưng hỏi người giúp nước, thì xin cử Trần Trung Tá."
Ông trung thành như thế, và lại tài giỏi hơn người, cho nên đời sau ai cũng kính phục và thường ví ông với ông Gia Cát Lượng bên Tàu.
Giải nghĩa. - Tài kiêm văn võ = có tài gồm cả văn võ. - Sĩ tốt = quân lính. - Tự quân = ông vua lên nối ngôi. - Ấu chúa = vua còn trẻ tuổi. - Tiên quân = vua đã mất rồi. - Ngạc nhiên = lấy làm lạ.
CÀY CẤY
(Ca dao). Bài học thuộc lòng.
Ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Xin ai đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
Giải nghĩa: Phải thì: đúng lúc, kịp thời vụ. Công lênh: gọi chung công sức việc cấy cày. Nước bạc: Nước ngập màu trắng như màu bạc. Cơm vàng: cơm quí như vàng. Tấc đất, tấc vàng: mỗi tấc đất thực quí giá như mỗi tấc vàng. Ý nói ruộng đất biết chăm sóc, canh tác, sẽ là nguồn lợi rất lớn.
SỰ LỢI ÍCH CỦA XE LỬA
Ngày xưa, ở nước ta, đường sá ít mà xấu, sự giao thông thật là bất tiện. Nhân dân cứ ở đâu biết đó, không năng đi lại, cho nên việc buốn bán làm ăn không mở mang ra được. Bây giờ thì không thế nữa, đường sá đã nhiều lại tốt, lại có xe lửa là một cách giao thông rất tiện lợi cho người ta. Người xứ nọ qua xứ kia dễ như đi chợ vậy. Nhờ vậy người trong Nam ngoài Bắc năng gặp nhau, thành ra không xa cách như trước nữa. Xe lửa lại chở được các thứ sản vật như nông sản, lâm sản, khoáng sản, cùng những hàng hóa nơi nọ đến nới kia, làm cho các công nghệ càng ngày càng phát đạt thịnh vương thêm, và sự làm ăn cũng dễ dàng hơn trước. Nói rút lại, xe lửa có thể giúp cho sự văn minh tấn bộ được một phần rất lớn. Vậy nên trong sách tây có câu rằng: Cứ xem đường xe lửa của một nước nhiều hay ít, thì biết được nước ấy mạnh hay yếu.
Giải nghĩa. - Nông sản = những sản vật bởi sự trồng trọt mà sinh ra. - Lâm sản = những sản vật lấy ở trong rừng. - Khoáng sản = những sản vật lấy ở dưới mỏ. - Phát đạt = mở mang ra.
NHÀ GA
Nhà ga là nơi xe lửa đậu để cho khách lên xuống. Ga nào cũng có chỗ bán vé, chỗ cân hàng, buồng làm giấy, buồng cho khách ngồi đợi.
Khi xe lửa đến, thì đậu ở trước ga, khách lên xuống xong thì lại chạy. Trong một đoàn xe lửa, thì cái xe máy đi đầu có người tài xế cầm máy và người đốt lửa. Sau xe máy thì có toa đựng nước và chứa than, rồi đến toa chở thư từ và đồ đạc. Sau cùng thì đến các toa hành khách. Những toa này chia ra nhiều hạng: hạng nhất, hạng nhì, hạng ba và hạng tư.
Giải nghĩa. - Đoàn = đi một lũ, một dây; đây nói nhiều toa nối với nhau. - Tài xế = người cầm máy. - Hành khách = hành: đi; khách: người. Đây nói người đi xe lửa.
Vé = giấy. - Thơ = thư.
TA KHÔNG NÊN NGÃ LÒNG
Nước mềm, đá rắn (cứng), thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ lớn, vậy mà dây cứa (*) mãi cũng đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ.
Người ta cũng vậy, phàm làm việc gì dẫu thấy khó cũng đừng nên ngã lòng. Gặp việc gì khó ta cũng cứ vững lòng mà làm, cứ cố vào, cố nữa, cố luôn mãi, thì việc dẫu khó đến đâu, cũng có ngày ta làm nên được. Những kẻ hay ngã lòng chẳng bao giờ làm được việc gì cả.
Giải nghĩa: Rắn: (tiếng dùng ở miền Bắc) cứng. Tổ: (tiếng dùng ở miền Bắc) ổ. Tha: cắn vào miệng mang đi. Phàm: nói chung. Ngã lòng: không bền lòng vững chí để theo đuổi một công việc.
MỸ THUẬT
Mỹ thuật là những nghề người ta làm để phô trương cái đẹp ra. Nghề vẽ, nghề chạm, nghề làm nhà, nghề đàn sáo, nghề múa nhảy, nghề làm thơ, nghề diễn thuyết, là mỹ thuật cả.
Người ta nếu chỉ mong ăn cho đủ no, mặc cho đủ ấm, thì đời người cũng tẻ lắm. Nhưng thường ngoài những cái thiết dụng, người ta lại còn thích cái đẹp, cái vui nữa. Cơm ăn đã vậy, nhưng có xới vào bát kiểu, có và bằng đũa mun, thì ăn mới ngon hơn, Áo quần mặc đã vậy, nhưng có điểm thêm bộ nhẫn, cái vòng, đôi hoa (bông), thì người mới đẹp thêm ra. Nhà ở có đắp, có chạm, có trần thiết trang hoàng, thì mới lịch sự. Vui tai, thì nghe tiếng đàn, tiếng hát; vui mắt, thì xem múa nhảy cùng các tranh vẽ; vui trí, thì ngâm vịnh văn thơ. Những cái vui tai, vui mắt, vui trí, sinh ra các mỹ thuật. Vậy các mỹ thuật cũng có ích, chớ không phải là vô dụng, mỹ thuật làm cho đời người thêm sung sương, thêm cao thượng.
Giải nghĩa. - Thiết dụng = cần dùng, không có không được. - Cao thượng = chuộng những thú thanh cao.
Tẻ = lạt. - Nhẫn = cà rá. - Đắp = khuôn tô.
CÁCH GIAO THÔNG
Trong một nước, cách giao thông có tiện lợi, nghĩa là hàng hóa vận tải có dễ dàng thì kỹ nghệ, thương mại mới phát đạt được. Ở xứ ta từ khi người Pháp sang đến giờ, đường sá mở thêm ra nhiều, sửa sang sạch sẽ hơn trước. Lại thêm ra nhiều cách vận tải, như: tàu thủy, xe lửa, xe điện, xe hơi và đặt dây thép, dây nói ngầm dưới bể, để thông tin tức đi các nơi cho tiện và mau. Lại có máy bay có thể chở được cả hành khách và thư từ, và vô tuyến điện để thông tin đi các nơi thật nhanh nhẹn, thật tiện lợi, nhất là cho các tàu đi ngoài biển. Nhờ có vô tuyến điện cho nên nhiều khi tàu bị nạn ở giữa biển có thể báo tin để cầu cứu được.
Giải nghĩa. - Giao thông = sự đi lại, vận tải. - Kỹ nghệ = nghề chế tạo ra cách đồ dùng. - Vô tuyến điện = cách thông tin trên không, không cần phải dây.
Pháp = Lang sa, Phan sa. - nhanh nhẹn = lanh lẹ.CON NGỰA KHÔN NGOAN
Một người Mường cứ mỗi tháng hai phiên đem các đồ vật ra chợ bán. Người ấy cưỡi ngựa, hai bên mình ngựa đeo hai cái giỏ đựng hàng, đàng trước cổ đeo một cái bị, hễ bán được đồng tiền nào lại bỏ ngay vào đấy.
Một hôm, người Mường đi qua nhà kia, bán được ít mộc nhĩ, rồi nhẩy lên mình ngựa đi, nhưng thúc thế nào con ngựa cũng không chịu đi.
Người kia lại phải nhảy xuống, để xem con ngựa làm sao. Khi nhìn đến cái bị thì sực nhớ ngay lại rằng bán mộc nhĩ quên chưa lấy tiền. Chắc con ngựa biết thế vì nó chưa nghe thấy tiếng tiềng bạc bỏ vào bị.
Quả nhiên, lúc đòi tiền bỏ vào bị rồi, thì con ngựa lại rảo bước đi ngay. Thế nó có khôn ngoan không?
Giải nghĩa. - Bị = đồ đựng có quai, đan bằng cói. - Mộc nhĩ = mộc: cây, nhĩ: tai; thứ nấm mọc ở các cây mục và có hình như cái tai. - Thúc = giục người ta làm việc gì cho mau. - Rảo bước = đi mau chân.
Mường = mọi. - mộc nhĩ = nấm mèo.
KHUYÊN VỀ LÀM RUỘNG
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng.
Văn chương phú lục chẳng hay,
Trở về làng cũ học cày cho xong.
Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,
Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.
Hết mạ ta lại quảy thêm,
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
Nữa mai lúa tốt đầy đồng,
Gặt về đập sảy bõ công cấy cày.
Giải nghĩa. - Văn chương = nói gồm cả cách học về đường chữ nghĩa. - Phú lục = bài văn phải theo vần, theo luật. - Gàu sòng = một thứ gàu tát nước có ba cái cọc và một người tát. - Sảy = bỏ thóc vào cái mẹt rồi hắt lên hắt xuống để cho hạt lép bay đi.
CHÍ LÀM TRAI
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng.
Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào.
Trời sinh, trời chẳng phụ nào,
Phong vân gặp hội, anh hào ra tay.
Trí khôn sắp để dạ dày,
Có công mài sắt, có ngày nên kim.
Giải nghĩa. - Tu thân = tu là sửa, thân là mình; sửa mình cho có đức hạnh. - Công danh = công là sự nghiệp mình làm ra, danh là tiếng tốt. - Hào = giỏi. - Phong vân gặp hội = nghĩa đen là nói gặp lúc gió mây. Người tài giỏi ví như con rồng, hễ có gió mây, thì bay bổng lên trời. Nghĩa bóng là được lúc hiển đạt.
HAI ANH EM
Hai anh em một nhà, nhưng tâm tính khác nhau. Em thì muốn yên phận thủ thường, anh thì lại chỉ thích công danh phú quí.
Khi cha mất được ít lâu, anh bèn thu thập tiền nong đem ngay ra tỉnh, để lo chút phẩm hàm. Đợi mãi gặp dịp, anh mới lo được chút cửu phẩm văn giai. Anh lấy làm tự tôn tự trọng, bèn trở về quê cũ, áo sa, nón giứa, rõ ra dáng ông Cửu lắm, để sắp sửa ăn khao (ăn mừng) cả hàng xã.
Anh về nhà, thấy em đang cổi trần, xúc thóc đổ vào vựa, thì lấy làm thẹn thò mà bảo rằng: "Chú làm ăn, tôi coi hèn hạ lắm. Sao chú không theo tôi kiếm lấy chút phẩm hàm, lại cứ đành giữ cái tiếng bạch đinh người ta chê cười ấy?"
Em đáp: "Em cũng biết ở chốn hương thôn, có chút phẩm hàm, thì vẻ vang thật. Nhưng em thiết nghĩ phải tốn bao nhiêu công của, mất bao nhiêu ngày giờ, lại còn vào luồn ra cúi, khốn khổ đến thế nào, mới mua được chút công danh hão, thì em đây thật không muốn. Cái chí của em chỉ muốn nối lấy nghiệp cũ của ông cha cho xứng đáng; làm ăn tuy có phần vất vả, nhưng trong bụng lúc nào cũng được thong thả, vui vẻ, không phải lo lắng, luồn lụy ai sốt cả."
Giải nghĩa. - Yên phận thủ thường = được làm sao bằng lòng như vậy, giữ lấy mực thường. - Phú quí = giàu sang. - Cửu phẩn văn giai = bậc thứ chín (bậc cuối cùng) trong phẩm trật các quan văn. - Bạch đinh = chân trắng, những người ở trong làng không có phẩm tước ngôi thứ gì.
thu thập = thâu thập. - thóc = lúa. - vẻ vang thật = rỡ ràng thiệt. - hão = vô dụng. - vất vả = cực khổ. - luồn lụy = chịu lụy. - sốt cả = hết thảy.
CHUYỆN LƯU BÌNH DƯƠNG LỄ
Lưu Bình và Dương Lễ là hai người bạn chơi với nhau từ thuở còn nhỏ, rất thân thiết. Dương Lễ nhà nghèo, Lưu Bình đem về nuôi, để cùng nhau đêm ngày đèn sách học tập. Dương Lễ chịu khó chăm học, chẳng bao lâu thi đậu, được bổ đi làm quan. Lưu Bình thì cậy mình nhà giàu, hay chơi bời, cho nên thi mãi không đậu. Về sau lại bị giặc giã cướp phá, nhà cửa sa sút, lúc ấy muốn học, cũng không có tiền mà ăn học nữa, mới tìm đến chỗ Dương Lễ ở, để mong nhờ bạn cũ.
Dương Lễ từ khi đi làm quan, vẫn có lòng nhớ Lưu Bình; Khi được tin bạn đến, trong bụng đã mừng, nhưng lại nghĩ rằng: bạn ta hay chơi bời cho nên bây giờ mới khổ. Nếu ta đưa về nuối, rồi lại sinh lười biếng, thì bao giờ cho thành thân được. Bèn giả làm mặt giận mà nói rằng: "Người làm quan không có bạn bè với người đói khó", rồi sai lính đuổi đi. Lưu Bình tức giận ra về.
Dương Lễ vào bảo Châu Long đi nuôi bạn thay mình. Châu Long vâng lới, đem tiền của đi, giả làm người buôn bán, đưa Lưu Bình về nuôi cho ăn học. Trong ba năm, Lưu Bình cố gắng hết sức. Đến khi thi đậu, định đến nhà Dương Lễ để trách mắng, Dương Lễ cho Châu Long ra chào. Bấy giờ Lưu Bình mới biết là người bạn đã hết lòng với mình. Từ đó, hai người lại thân thiết hơn trước.
Giải nghĩa. - Sa sút = suy đồi, nghèo ngặt, không như trước. - Thành thân = làm nên danh phận.
chăm = siêng.
CẦN PHẢI GIỮ TÍNH HẠNH CỦA MÌNH
Khi ông Trương Cán mới thi đậu, có vào yết kiến ông Vương Đình Tướng là một bậc danh sĩ đời bấy giờ. Ông Vương Đình Tướng bảo rằng: "Hôm trước, trời vừa mưa xong, tôi đi ra phố, có trông thấy một người đi đôi giày mới, đi từ phố này đến phố kia, rón rén tìm lối mà bước, chỉ sợ lấm giày; sau quanh vào thành, bùn lầy nhiều quá, người ấy lỡ chân dẫm phải đống bùn, từ bấy giờ cứ bước tràn đi, chẳng tiếc gì đến đôi giày nữa. Xem thế mới biết người ta nên giữ gìn tính hạnh ngay từ lúc đầu, nếu đã lỡ một lần, thì dần dần thành ra người càn rỡ". Ông Trương Cán nghe lời dạy ấy, lấy làm cảm phục, mà tôn làm thầy.
Ta nay đi học, cũng nên lấy điều ấy làm răn. Dẫu việc nhỏ mọn thế nào, ta cũng phải cẩn thận giữ gìn, nếu không thì chỉ có lần đầu là khó, rồi hễ đã quen một lần là quen mãi. Bởi thế cho nên cổ nhân lấy sự giữ mình làm cẩn trọng lắm.
Giải nghĩa. - Yết kiến = nói kẻ dưới đến thăm bậc trên. - Rón rén = sẽ đi, đi giữ gìn từng bước một. - Cổ nhân = người đời xưa.
trông = ngó. - dần dần = lần lần. - càn rỡ = quấy quá.
ÔNG NGUYỄN VĂN HIẾU
Ông Nguyễn Văn Hiếu thuở nhỏ nhà nghèo, đi làm mướn, cắt cỏ cho người ta để kiếm ăn. Sau theo ông Võ Tánh ra giúp vua Gia Long đi đánh giặc, lập được nhiều công. Khi việc đánh dẹp xong rồi, vua sai ông ra làn trấn thủ ở Bắc kỳ.
Ông làm quan rất là thanh liêm, không lấy gì của ai bao giờ. Ông lại nghiêm cấm những người nhà không cho giao thông với người ngoài. Mồng năm ngày tết, ai cho gì cũng không lấy. Ông làm quan to mà nhà vẫn nghèo, lương bổng chỉ đủ ăn, chớ không thừa chút nào. Bà vợ thường hay phàn nàn vì nỗi nhà nghèo. Ông cười mà nói rằng: "Bà không nhớ khi ta phải đi cắt cỏ thuê, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc hay sao? Nay được như thế này, còn đòi gì nữa, mà lại muốn lấy của phi nghĩa để làm giàu ru?"
Ông làm quan rất có nhân, và ngăn cấm bọn lại thuộc không cho quấy nhiễu nhân dân, bởi vậy ông ở đâu, dân sự cũng yêu mếm lắm. Khi ông làm trấn thủ Nghệ An, một hôm cùng với các quan đồng liêu tra án bọn ăn cướp, có đứa đã chịu thú tội, mà các quan còn có ông muốn tra tấn nữa. Ông nói rằng: "Chúng nó cùng khổ mới sinh ra làm bậy, nay đã thú tội rồi, thì cứ theo luật mà làm án, hà tất phải kìm kẹp cho lắm làm gì?"
Tính ông thật thà và cần mẫn, đối với người thì rất khoan hòa dễ dãi. Ông thật là một ông quan thuần lương, nghĩa là giỏi và liêm, xưa nay ít có vậy.
Giải nghĩa. - Trấn thủ = quan đời xưa, cũng như tuần phủ, tổng đốc bây giờ. - Đồng liêu = người cùng làm quan với nhau. - Thú tội = nhận tội.
THƠ THẰNG MÕ (Anh seo, xâu)
(Thơ cổ)
Bài học thuộc lòng.
Mõ này cả tiếng lại dài hơi,
Mẫn cán ra tay chẳng phải chơi.
Mộc đạc vang lừng trong mấy cõi,
Kim thanh chuyển động khắp đôi nơi.
Trẻ già chốn chốn đều nghe hiệu,
Làng nước ai ai cũng cứ lời.
Thứ bậc dưới, trên, quyền cất đặt,
Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi.
Đại ý. Thằng mõ là người đê hạ nhất trong làng, tuy vậy, có tiếng mõ rao khắp các thôn xóm, thì các người trong làng mới biết việc mà hội họp nhau lại. Bài thơ này khéo về lúc tả những cái rất hèn hạ mà chuyển thành những cái rất tôn trọng.
Giải nghĩa. - Mẫn cán = nhanh nhẹn và chăm chỉ, - Mộc đạc = mõ gỗ. - Kim thanh = tiếng kêu vang. - Cứ lời = theo như lời mõ đã rao.
ĐI CHỢ TÍNH TIỀN
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng.
Một quan tiền tốt mang đi,
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà,
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.
Trở lại mua sáu đồng cau,
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.
Có gì mà tính chẳng thông?
Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi.
Ba mươi đồng rượu, chàng ơi,
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.
Hai chén nước mắm rõ ràng,
Hai bảy mười bốn, kẻo chàng hồ nghi.
Hai mươi mốt đồng bột nấu chè,
Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan.
Giải nghĩa. -Tiền tốt = tiền tiêu được. - Vàng = đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi. - Hồ nghi = ngờ vực, không biết rõ.TẾ NAM GIAO
Kể các sự tế tự của ta thì tế Nam giao là trọng thể hơn cả. Tế Nam giao là tế Trời, Đất, cứ ba năm một kỳ, vua ra chủ trì. Khi vua ra tế, thì đội mũ miện, mặc áo long cổn và đi hia.
Còn các quan thì mũ áo chỉnh tề, đứng hai bên, quan văn bên tả, quan võ bên hữu. Lúc tế có âm nhạc ca vũ và có voi ngựa, quân lính dàn khắp ở ngoài rất nghiêm trang. Cách bài trí, cách tế lễ thật là kính cẩn, tôn nghiêm.
Ai đã được xem tế Nam giao, đã được trong thấy cái cảnh tượng ban đêm đèn đuốc sáng choang, trên bàn thờ khói hương nghi ngút, dưới bao nhiêu người chủ tâm về sự lễ bái như thế, thì ai ai cũng phải sinh lòng cung kính.
Giải nghĩa. - Mũ miện = mũ ở trên đỉnh phẳng và có mười hai tua tỏa xuống để vua đội lúc ra tế Nam giao. - Áo long cổn = áo thêu rồng của vua mặc. - Chủ tâm = để tâm để chí vào một việc gì.
CÁCH SỬA MÌNH
Ông Trình tử xưa để hai cái lọ ở bên cạnh chỗ ngồi. Mỗi khi trong bụng nghĩ một điều gì thiện, thì ông bỏ một hột đậu trắng vào trong một lọ. Mỗi khi nghĩ một điều gì ác, thì ông lại bỏ một hột đậu đen vào cái lọ kia. Lúc đầu, đậu đen nhiều, đậu trắng ít. Sau đậu trắng nhiều, đậu đen ít, dần dần đến không còn một hột đậu đen nào. Về sau, không cần phải bỏ đậu trắng nữa, tâm tính bấy giờ thuần nhiên toàn thiện.
Vì ông Trình tử biết sửa tâm rèn tính như thế mới thành được người hiền triết. Vậy ta nên lấy đó làm gương mà sửa mình. Trong sách có câu: "Từ đáng thiên tử cho đến kẻ thứ dân ai ai cũng phải lấy sự tu thân làm gốc." Vậy người ta bất cứ làm gì cũng phải cố mà sửa mình cho nên con người có phẩm hạnh.
Giải nghĩa. - Trình tử = đây là ông Trình Y Xuyên, em ông Trình Hiệu đời nhà Tống. - Toàn thiện = ý nói nghĩ làm cái gì đều hiền lành tử tế cả. - Hiền triết = bậc có đạo đức cao và học hành rộng. - Thiên tử = (con trời) nghĩa là vua. - Thứ dân = người thường dân. - Tu thân = sửa mình.
lọ = chĩnh.
THÁC KHÔNE.
Sông Cửu Long chảy đến Khône thuộc về Hạ Lào, thì có nhiều thác cao tới mười lăm, mười sáu thước và dài đến hàng nghìn thước. Khúc sông ở phía trên thác thì hẹp lại rồi chảy tràn một vùng có đá lởm chởm và rông tới bốn năm dặm. Phong cảnh chỗ ấy thật là hùng vĩ thanh tú. Dưới sông nước chảy ầm ần nghe như tiếng sấm; trên núi "cỏ cây chen đá, lá chen hoa". Giữa thác, đàn cá vẫy vùng; xa xa chim trời lênh bênh theo dòng nước chảy. Thác Khône thật là một nơi tiểu sơn lâm mà có đại kỳ quan vậy.
Giải nghĩa. - Lởm chởm = lố nhố nhiều lắm. - Dặm = dăm tây là bốn nghìn thước tây. - Hùng vĩ = to lớn. - Thanh tú = đẹp đẽ. - Tiểu sơn lâm = một khu rừng nhỏ. - Đại kỳ quan = một nơi có phong cảnh rất lạ.
nghìn = ngàn. - thật = thiệt. - lênh bênh = linh binh.
XỨ CAO MÊN
Đi vào Biển Hồ và chùa Đế Thiên Đế Thích, thì phải theo ngược dòng Tonlé Sap là một nhánh sông Cửu Long.
Tonlé Sap có nhiều cảnh lạ, người đi qua nhìn không bao giờ chán mắt. Hai bên bờ, thì cây cối um tùm. Chỗ này lác đác mấy cái nhà sàn, cheo leo trên mặt nước; chỗ kia tịch mịch một cái lăng, một ngọn tháp hay một cảnh chùa, điểm một vị sư mặc cà sa vàng, đang trầm tư mặc tưởng. Thỉnh thoảng những chỗ thưa cây, lại có một pho tượng thật lớn mỉm cười mà nhìn xuống cõi tục, tựa hồ như nhìn người đời xô đẩy nhau trong vòng danh lợi.
Nhưng sông Tonlé Sap có cái cảnh lạ hơn cả, là thường dòng nước ở trong Biển Hồ chảy ra, mà đến mùa mưa, nước sông Cửu Long lên to thì dòng nước lại ở ngoài sông chảy lại.
Giải nghĩa. - Biển Hồ = hồ lớn nhứt ở Cao Mên. - Chùa Đế Thiên Đế Thích = chùa cổ nhất ở Cao Mên. - Lác đác = rải rác một vài cái. - Tịch mịch = yên lặng. - Trầm tư mặc tưởng = ngẫm nghĩ về những điều cao xa. - Cõi tục = thế giới ta ở.
um tùm = um sùm. - thưa = sưa. - mỉm = chủm chỉm.
XỨ CAO MÊN (bài nối)
Đến mùa dòng nước chảy lại như vậy, thì các miền xung quanh Biển Hồ lại ngập cả.
Nước lên đem đất phù sa vào làm cho ruộng đất tốt thêm, cá theo nước vào hồ, có hàng ức triệu con, để nhân dân chài lưới mà sinh nhai. Dân Cao Mên giàu về nghề đánh cá. Nước tràn vào cả cả các khu rừng gần hồ, mênh mông như biển, ngập cả cây cối.
Mùa ấy gọi là "mùa cá lên ngàn". Trong khi ấy thì không gì thú bằng một con thuyền đủng đỉnh dạo chơi trên mặt nước.
Hằng năm, cứ đến mùa nước xuống, thì dân Cao Mên mở hội rất trọng thể. Lúc ấy có vua ngự ra cùng với các quan và dân sự đi thuyền theo không biết cơ man nào mà kể. Đợi lúc bước xuống, thì thuyền bơi đến chỗ có cái dây chăng ngang qua sông. Vua làm lễ cầm thanh bảo kiếm chém đứt cái dây ấy, ngụ ý mở đường cho nước xuống để dân sự cày cấy làm ăn.
Giải nghĩa. - Đất phù sa = đất sông bồi lên. - Sinh nhai = kiếm ăn. - Đủng đỉnh = ung dung, thong thả.
con = chiếc. - Hằng = mỗi.
THÀNH NAM VANG
Nam-vang là kinh đô nước Cao Mên. Xưa, đấy là một khu đất bỏ hoang, chỉ những cây cỏ gai gốc, ao đầm ẩm ướt, thế mà bây giờ hóa ra một chốn thành thị đông đúc, phố xá rộng rãi, lâu đài đẹp đẽ.
Buổi đầu, Nhà nước đào sông khơi ngòi để lấy đất lầp những hổ ao và làm cầu cống để cho tiện đường đi lại. Hai bên bờ sông dần dần các dinh thự nổi lên. Người bản xứ, người Khách thấy thế cũng theo mà làm nhà cửa rông rãi, cao ráo, đẹp đẽ. Hiện nay Nam Vang là một chốn đô hội lớn và đẹp.
Giải nghĩa. - Kinh đô = chỗ vua đóng. - Dinh thự = sở làm việc công. - Đô hội = thành thị to, đông người ở.
dần dần = lần lần.
HỒ HOÀN KIẾM
Trong thành phố Hà Nội có một cái hồ gọi là hồ Hoàn Kiếm. Tục truyền rằng một hôm, vua Lê Thái Tổ ngự ra câu cá ở bờ hồ, chỗ gần sở Đốc-lý bây giờ, bỗng có một con rùa thật lớn nổi lên trên mặt nước. Vua lấy thanh bảo kiếm ném con rùa, thì nó lặn xuống, rồi nó đem thanh kiếm lên trả vua. Bởi thế mới đặt tên là Hoàn Kiếm.
Ở giữa hồ, về phía tây, có đền Ngọc-sơn. Đi vào đền thì phải qua một cái cầu. Đền ngoài thì thờ đức Văn Xương, đền trong thì thờ đức Quan Đế. Đằng trước đền, xa xa về phía tay phải thì có một cái gò, ở trên xây một cái tháp gọi là Tháp Rùa.
Xung quanh hổ thì có đường đi sạch sẽ, hai bên có cây cao bóng mát. Chiều đến, thì bờ hồ đông như hội, vì là một nơi mát mẻ nhất trong thành phố. Thật là:
"Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm."
Giải nghĩa. - Tục truyền = lời miệng truyền lại, không có bằng chứng gì làm đích thực. - Sở Đốc-lý = sở cai trị thành phố.
tay phải = tay mặt. - gò = cồn.
HUẾ
Ở Huế, thì chỉ có thành trì và lăng tẩm là đẹp hơn cả. Thành thì xây bằng gạch, thật cao, ở xung quanh thì có hào sâu và rộng. Trong thành, chính giữa thì có Hoàng -thành, là chỗ cung điện nhà vua; ở bên cạnh thì có các bộ và các viện. Vào Hoàng-thành thì đi qua cửa Ngọ-môn và những con đường rộng lát gạch, hai bên có hồ sen rồi mới đến sân rồng, trước điện Thái-hòa là chỗ có thiết đại trào thì vua ngự.
Các lăng thì ở trong những khu rừng gần kinh đô. Có lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị và lăng Tự Đức là đẹp hơn cả. Ở đấy thì có đường rộng, bệ cao, có đền đài, hồ ao, có cây cổ thụ, có hoa bốn mùa. Lăng tẩm là một nơi hùng vĩ đẹp đẽ mà lại có vẻ tịch mịch vô cùng.
Giải nghĩa. - Lăng tẩm = mộ các đế vương. - Hùng vĩ = mạnh mẽ. - Tịch mịch = yên lặng.
cổ thụ = cổ thọ.
SÀI GÒN
Trước khi người Pháp sang bên ta, Sài Gòn là một nơi có nhiều ao đầm kênh rạch bùn lầy ẩm thấp. Thế mà bây giờ thành ra một nơi đô hội rất đẹp ở nước ta. Người ngoại quốc đẽ cho là "một hạt trân châu ở Viễn Đông" này. Mà thật thế, bây giờ ở Sài Gòn có nhiều lâu đài tráng lệ, nhà cửa đẹp đẽ, phố xá rộng rãi, vườn tược mát mẻ, nước máy trong sạch, đèn điện sáng choang, nhân dân đông đúc, kể có hơn tám vạn người, buôn bán phồn thịnh, tàu bè qua lại tấp nập cả năm. Đứng trên cao trông xuống, thành phố Sài Gòn chẳng khác nào một khu vườn rộng mông mênh, một màu xanh biếc, lô nhô nổi lên trên ngọn cây những nhà cao lớn, tựa hồ như muốn ganh đua với cỏ cây mà chiếm lấy một chỗ ở trên cao vậy.
Giải nghĩa. - Kênh rạch = sông ngòi. - Ẩm thấp = ướt áp, không được khô ráo. - Trân châu = ngọc trai. Đây vì Sài Gòn đẹp như hòn ngọc trai.
thịnh = thạnh. - tấp nập = rộn rực. - trông = ngó.
CHỢ LỚN
Ở Nam Việt đất xốp và hay lún. Người ta vận tải những đồ vật nặng có phần khó khăn và nhất là làm đường xe lử lại càng khó lắm. Cho nên sự giao thông và vận tải đều đi đường thủy cả.
Ở gần Sài Gòn, hai bên bờ Rạch Ông, người đi kẻ lại tấp nập lạ thường. Trên phía bắc là chỗ tàu thủy đậu, hàng hóa chồng chất ngổn ngang. Dưới phía nam là nơi ghe mành đậu liên tiếp với nhau, dài kể đến một ngàn thước tây, cột buồm lô nhô chen chúc thật là nhiều. Đi quá chỗ ấy rồi cứ theo rạch Ông quanh co ở miền đồng điền, một lát, thì đến những nơi có làng xóm sầm uất. Đi khỏi chỗ đó thì trông thấy Chợ Lớn. Ở Chợ Lớn thì nhan nhản những nhà cao cửa lớn, người đi lại đông đúc như kiến, trên bờ, dưới bến xôn xao nhộn nhịp, mà phần nhiều là khách trú cả.
Giải nghĩa. - Đất xốp = đất không chắc. - Tấp nập = nhộn nhịp. - Ngổn ngang = bừa bãi, không có thứ tự. - Xôn xao = ồn ào những tiếng người.
mành = bầu. - sầm uất = đông đảo.
TRÀNG HỌC VUI
Nhà gạch mái ngói thật cao ráo, chắc chắn. Ngoài thì cửa chớp sơn sanh, trong thì cửa kính sáng sủa.
Lớp nào lớp ấy, bàn ghế toàn bằng gỗ lim, đánh bóng. Trên tường treo nhiều bản đồ. Trong tủ có nhiều sách chữ tây và chữ quốc ngữ.
Thầy giáo dạy biết bao nhiêu học trò, cậu nào cậu ấy ngồi nghe có ý chăm chỉ lắm.
Ấy, tràng học vui vẻ như vậy. Sao ta chẳng rủ nhau đi học. Có học mới biết, mới khôn được.
Giải nghĩa. - Đánh bóng = làm cho bóng, đánh gỗ lên nước. Người ta thường đánh bàn ghế bằng lá chuối khô hoặc bằng giẻ.
cửa chớp = cửa lá sách. - cửa kính = cửa gương.
LỊCH SỬ NƯỚC TA
Ta học sử để biết những việc đời trước. Thuở người ta chưa biết đặt ra chữ viết thì chỉ đem những công việc trong đời mình và những chuyện xảy ra trong nước kể lại cho con cháu nghe. Những chuyện ấy cứ truyền miệng như thế hết đời nọ sang đời kia, nên quên đi ít nhiều cùng sửa đổi lại mà thành ra chuyện cổ tích. Chuyện cổ tích không phải là thực cả, nhưng hay, nên ta thích kể.
Ta biết sử nhất là vì có sách cổ để lại. Trong lắm pho sách như pho Quốc sử, tổ tiên ta có chép những công việc lớn lao trong nước Việt nam và chuyện các đấng vĩ nhân anh hùng nữa. Tổ tiên còn để lại những bút tích trong đền chùa, lăng tẩm và bia nữa.
Giải nghĩa. - Vĩ nhân = người tài giỏi hơn mọi người khác. - Anh hùng = người làm những việc hiển hách. - Bút tích = cái gì người đời xưa chép mà còn lại đến bây giờ. - Lăng tẩm = mồ mả của vua chúa xây đắp đẹp đẽ.
MAU TRÍ KHÔN
Một hôm, anh Giáp và lũ trẻ trong làng rủ nhau ra chơi ở trước sân đình, bên cạnh cái ao. Trong khi mấy anh em đang đánh quần, đánh đáo với nhau, thì anh Tý nom thấy con chuồn chuồn đậu trên cành đào, ở gần bờ ao, liền bỏ chạy đi đuổi bắt. Bỗng nghe tiếng kêu, mọi người ngoảnh lại, thì thấy anh Tý đang loi nhoi dưới nước. Mấy đứa trẻ kia trông thấy, hoảng hốt, sợ hãi bỏ chạy mỗi đứa một nơi kêu la rầm rĩ. Anh Giáp không chạy đâu cả, trông trước, trông sau, thấy có cây sào dựng bên cạnh đình, liền vác ra, bỏ xuống ao cho anh Tý níu lấy mà lên. Thế là nhờ có anh Giáp mau trí khôn mà cứu được anh Tý khỏi chết đuối.
Giải nghĩa. - Mau trí khôn = sáng trí, gặp việc khó mà tinh thần tỉnh táo, không hốt hoảng. - Chuồn chuồn = một thứ côn trùng có bốn cánh mỏng, đuôi dài. - Hoảng hốt = vội vàng, sợ hãi. - Rầm rĩ = om sòm. - Níu = nắm chặt.
loi nhoi = cựa quậy.
Lúc nguy cấp cần phải mau trí khôn
BỊNH GHẺ
Bịnh ghẻ là một bịnh ở ngoài da, do con ghẻ mà sinh ra.
Ai có bịnh ấy, thì lúc đầu ngứ ngáy, khó chịu. Sau thấy có những nốt, trước còn mọc ở kẽ tay, cổ tay, nếu không chữa ngay thì dần dần lan ra khắp cả mình mẩy.
Bịnh ghẻ là một bịnh hay lây, nghĩa là có thể truyền người nọ sang người được. Người ta thường lây bịnh ấy, là vì hay ở chung chạ với người có ghẻ, hoặc chung chăn chiếu, chung quần áo với họ.
(còn nữa)
Giải nghĩa. - Lan = ăn rộng mãi ra. - Chung chạ = ở lẫn với nhau.
nốt = mụn. - dần dần = lần lần. - chăn = mền.
Bịnh ghẻ hay lây
BỊNH GHẺ (tiếp theo)
Muốn không mắc phải bịnh ghẻ, thì ta chớ nên dùng những đồ đạc mà người có ghẻ đã dùng. ta lại phải ở cho sạch sẽ, vì ở bẩn thường sinh ra ghẻ lở. Bịnh ghẻ không nguy hiểm gì, nhưng ghê tởm lắm.
Ai mắc bịnh ấy, thì nên chữa ngay. Mà chữa thì phải lấy xà phòng đen và bàn chải cứng mà xát vào những chỗ ghẻ cho bật máu ra, rồi tắm rửa cho thật sạch. Đoạn lấy thuốc ghẻ mà bôi. Còn quần áo thay ra thì phải bỏ vào nước sôi mà nấu. Cứ làm như vậy, thì chẳng bao lâu khỏi ghẻ.
Giải nghĩa. - Nguy hiểm = có thể hại đến sức khỏa hay tính mệnh. - Xà phòng = do tiếng Pháp savon mà ra. Xà phòng dùng để tắm giặt cho sạch.
bẩn = dơ. - khỏi = lành.
Ghẻ thường tại bẩn mà sinh raĐỒ LÀM RUỘNG
Muốn xới đất lên, thì người ta dùng cày hay dùng cuốc và cào. Cày và bừa thì dùng ở ngoài đồng, phải có trâu bò kéo. Cuốc và cào thì dùng ở vườn tược, tay người ta làm lấy. Đào đất thì người ta dùng cái thuổng (xuổng, thêu). hay là cái mai. Đập đất cho nhỏ, thì người ta dùng cái vồ bằng gỗ. Giũi cỏ cho sạch, thì người ta dùng cái nạo. Còn nhiều nơi người ta dùng quả lăn bằng gỗ hay bằng đá để lăn cho nhỏ đất, hoặc để trang cho phẳng mặt đất. Đến mùa lúa chín, thì người ta dùng cái hái (vằng) để gặt, cái liềm để cắt rạ. Hết thảy những đồ ấy là đồ cần dùng cho những nhà làm ruộng.
Giải nghĩa. - Giũi = nạo cho sạch. Có nơi gọi là xủi. - Trang = san cho phẳng.
CHĂN TRÂU
Ai bảo chăn trâu là khổ?
- Không, chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu tôi đội nón mê như lọng che. Tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bươm bướm lượn trên đám cỏ. Trong khoảng trời xanh, lá biếc, tôi với con trâu thảnh thơi vui thú, tưởng không còn gì sung sướng cho bằng!
Giải nghĩa. - Nón mê = nón rách. - Ngất nghểu = có ý nói ngồi trên mình trâu lấy làm đắc chí.
cành = ngành.
HỌC TRÒ LƯỜI BIẾNG
Bính là một đứa học trò lười biếng (nhác nhờn). Sáng ngày dậy trưa nên đi học trễ, mà tiếng rằng đi học, nhưng chẳng mấy khi nó thuộc bài và làm đủ bài. Khi nó ở nhà cha mẹ sai làm việc gì, thì tìm đường trốn tránh. Cả ngày chỉ thích chơi bời lang thang ở ngoài đường, ngoài ngõ. Cha mẹ đánh mắng luôn và thầy giáo cũng quở phạt luôn.
Nếu nó cứ lười biếng như thế mãi, thì về sau chắc sẽ phải khổ suốt đời. Những người lười biếng thì không làm gì nên thân. Ta chớ nên lười biếng.
Giải nghĩa. - Lang thang = vơ vẩn ngoài đường. - Quở = cũng có nghĩa là mắng.
HỌC TRÒ CHĂM HỌC
Sửu chăm học lắm. Khi ngồi trong lớp học thì nó cúi đầu nom vào bài, lắng tai nghe lời thầy dạy. Bao nhiêu tâm trí đem vào sự học cả. Nó không nhìn ngang, nhìn ngửa, không thụi ngầm, nghịch trộm anh em.
Ở nhà, lúc nó chơi, thì hẳn ra chơi, mà lúc nó học bài hay tập viết, thì chỉ chăm học chăm viết mà thôi, chứ chẳng bao giờ nghĩ lảng đi đâu cả. Nó học tập như vậy, trách nào mà chẳng mau tấn tới.
Giải nghĩa. - Ngầm = giấu giếm không cho ai biết. - Trộm = cũng nghĩa là ngầm.
NÊN GIÚP ĐỠ LẪN NHAU
Trời nắng to. Đường thì dốc. Một ông lão đầy cái xe lợn. Trên xe có ba bốn con lợn to, chân trói, bụng phơi và mồm kêu eng éc. Ông lão cố đẩy cái xe, mặt đỏ bừng, mồ hôi chẩy, mà xe vẫn không thấy chuyển.
Mấy cậu bé đang chơi trên bờ đê, thấy thế, vội chạy tới, xúm lại, buộc dây vào đầu xe mà kéo hộ.
Xe lên khỏi dốc, ông lão cám ơn các cậu và các cậu cũng lấy làm vui lòng, vì đã giúp được việc cho người.
Giải nghĩa. - Xe lợn = thứ xe một bánh để chở lợn, gà và các đồ vặt. - Chuyển = nhúc nhích, động đậy.
lợn = heo.
LỄ PHÉP VỚI NGƯỜI TÀN TẬT
Anh Trung, nhân ngày chủ nhật, cùng với lũ trẻ rủ nhau ra cổng xóm chơi. Lũ trẻ đang nô đùa với nhau, bỗng trông thấy một người ở đàng xa chống gậy đi đến. Người ấy què một chân, đi khập khễnh. Lũ trẻ cười ầm cả lên.
Anh Trung mắng lũ trẻ mà bảo rằng: "Người ta là một người tàn tật, thì chúng ta lại càng phải giữ lễ phép lắm; sao các anh trông thấy lại cười ầm lên như vậy, chẳng hóa ra là vô hạnh lắm ru."
Lũ trẻ nghe nói, không dám cười nữa. Khi người què đến, anh Trung đứng nép ra bên đường để cho người ấy đi, cả lũ trẻ cũng bắt chước như vậy.
Giải nghĩa. - Nô đùa = chơi nghịch với nhau, có nơi gọi là trửng dởn (giỡn) hay chơi dởn (giỡn). - Vô hạnh = không có nết na, không biết giữ lễ phép.
cổng = cửa ngõ.
CÁI CÀY
Cái cày là đồ làm ruộng cần nhất. Cái cày của ta dùng còn đơn sơ lắm, gần hết làm bằng gỗ. Thân cày, náng cày, chỗ tay cầm (seo cày) toàn bằng gỗ cả. Cái bắp cày thì bằng tre hay bằng gỗ. Chỉ có cái lưỡi cày và cái diệp là bằng sắt mà thôi. Cái cày tây thì gần hết làm bằng thép cả, và đủ bộ phận hơn cày ta. Bên Tây nhiều khi lại còn ghép mấy cái cày vào một cái bắp, rồi dùng máy kéo. Bên ta dùng cày máy không tiên, vì ruộng ta bùn lầy, lại chia ra từng miếng nhỏ hẹp. Sự cày bừa của ta quanh đi quẩn lại chỉ nhờ sức trâu bò mà thôi.
Giải nghĩa. - Diệp cày = một miếng gang hay một miếng sắt để gắn liền ở trên cái lưỡi, để khi cày nó lật đất ra hai bên. - Quanh đi quẩn lại = chỉ có thế mà thôi, không có gì khác nữa.
CON TRÂU
Trâu lớn hơn bò và sức mạnh hơn. Lông đen, cứng và thưa, thỉnh thoảng có con lông trắng. Mắt lờ đờ, sừng to và cong lên. Trâu xem nặng nề và chậm chạp hơn bò. Tính nó thuần và hay chịu khó. Ăn uống ít, mỗi ngày chỉ vài ba nắm cỏ khô cũng đủ. Nó ưa đầm (mẹp) xuống nước, xuống bùn, và có thể lội qua sông, qua đầm được.
Trâu dùng để cày ruộng, kéo xe, hoặc kéo che đạp mía. Thịt trâu không ngon bằng thịt bò. Da trâu dùng để bịt trống hay làn giày dép. Sừng trâu dùng làm các đồ vật như: cán dao, lược, ông thuốc v.v...
Trâu thật là con vật có ích. Ta vẫn cho vào hạng lục súc rất có công với người.
Giải nghĩa. - Lờ đờ = trông không nhanh trai. - Đầm = lăn xuống cho có nước, có bùn. - Che đạp mía = máy ép mía. - Lục súc = Sáu giống vật của người ta nuôi: trâu, ngựa, dê, gà, chó, lợn.
MÂY VÀ MƯA
Khi ta nấu nồi nước, thì ta thấy hơi nước bốc lên nghi ngút như khói. Giá ta lấy cái vung úp lên trên miệng nồi một lát, thì thấy ở cái vung có giọt nước chảy xuống. Vậy mây ở trên trời cũng giống như hơi ở nồi nước. Nhưng mây là hơi nước ở sông, ở bể bốc lên, mà thành ra. Lúc đầu thì mây là những giọt nước nhỏ mà nhẹ, rồi dần dần lên trên cao, gặp khí lạnh, hợp lại thành giọt nước lớn và nặng. Khi giọt nước nặng quá, thì rơi xuống, thành ra mưa.
Nước mưa một phần thấm xuống đất, một phần chảy vào ao, vào ruộng, hay là chảy vào ngòi, vào sông, rồi lại ra bể.
Giải nghĩa. - Nghi ngút = hơi bay khói bốc lên nhiều. - Vung = cái nắp đậy trên cái nồi.
dần dần = lần lần. - rơi = rớt.
MƯA DẦM GIÓ BẤC
Về mùa đông, khi gặp mưa dầm gió bấc, thì phong cảnh nhà quê thật tiêu điều buồn bã. Ngoài đồng thì nước giá, thỉnh thoảng mới thấy lác đác có người cày hay bừa. Người nào người nấy cặm cụi (lụi cụi) mà làm, không trò chuyện vui vẻ như khi ấm áp. Trong làng thì đường sá vắng tanh, bùn lầy đến mắt cá chân. Xung quanh mình, không có một tiếng động, chỉ nghe gió thổi vào bụi tre ù ù, giọt nước rơi xuống đất lách tách.
Giải nghĩa. - Tiêu điều = vắng vẻ buồn bã. - Giá = lạnh cóng chân tay. - Cặm cụi = cắm đầu làm, không nghĩ đến việc khác. - Bùn lầy = đất lõng bõng nước.
THỢ LÀM NHÀ
Làm một cái nhà gạch, phải dùng biết bao nhiêu thứ thợ.
Đào móng, đổ nền, phải có thợ đấu. Đặt móng xây tường phải có thợ nề. Làm cột, làm kèo, làm gác, làm cửa phải có thợ mộc.
Lại còn thợ chạm, chạm cửa võng; thợ thiếc làm máng, thợ sơn sơn cửa.
Ấy là ta không nói những thợ cưa gỗ, nung vôi, làm gạch cùng những thơ lắp kính, lắp khóa, v.v...
Làm cho thành một cái nhà, phải dùng biết bao nhiêu thợ thuyền và tốn biết bao nhiêu công của.
Giải nghĩa. - Cửa võng = gỗ chạm lộng, thường đặt ở gian (căn) giữa nhà, từ bên nọ sang bên kia.
thợ đấu = thợ làm đất. - Thợ nề = thợ hồ. - nung = đốt.
CON ONG
Người ta nuôi ong, phải làm tổ cho nó ở. Ong ở từng đàn. Những ngày nắng ráo, thì từ sáng đến tối nó bay đi tìm hoa, lấy nước mật hoa đem về làm mật, lấy phấn hoa đem về làm sáp.
Ta nuôi ong để lấy mật và lấy sáp. Mật để ăn, sáp để làm nến (cây đèn); ta lại còn dùng sáp ong để đánh các đồ đạc bằng gỗ cho bóng. Ong có ngòi (nọc) đốt đau; ai vô ý mà đến gần tổ ong, thường bị nó đốt.
Giải nghĩa. - Nước mật hoa = nước có vị ngọt ở trong hoa. - Phấn hoa = phấn vàng bám ở nhị hoa. - Sáp ong = một chất dẻo, có sắc vàng, lấy ở tổ ong ra. - Nến = thứ nến làm bằng sáp ong ta gọi là nến sáp.
tổ = ổ.
TRUYỆN ÔNG NGÔ QUYỀN
Một đạo quân Tàu đi đường biển vào sông Bạch Đằng. Ông Ngô Quyền sai quân lấy gỗ đẽo nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông rồi chờ nước thủy triều lên, cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến quân giặc. Được ít lâu, ông giả cách thua, Ngược dòng sông chạy. Quân tàu đuổi theo, nhưng ngay lúc đó nước thủy triều xuống, thuyền của họ chạm vào cọc vỡ nát cả. Quân Tàu bị một trận thua to.
Được trận rồi ông Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (nay thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên). Ông trị vì được sáu năm. Từ lúc ông lên làm vua là hết cuộc nội thuộc nước Tàu và bắt đầu thời kỳ tự chủ trong lịch sử nước Việt nam.
Giải nghĩa. - Sông Bạch Đằng = nhánh sông Thái Bình chảy vào gần tỉnh lỵ Quảng Yên. - Nước thủy triều = nước biển mỗi ngày dâng lên lại rút xuống. - Khiêu chiến = khêu cho người ta đánh nhau với mình.
ÔNG TRẦN QUỐC TUẤN
Hồi nước Việt Nam phải quân Mông Cổ sang đánh, vua ta giao binh quyền cho ông Trần Quốc Tuấn. Ông đánh trận đầu, vì quân Mông Cổ nhiều hơn quân ta, nên ông bị thua. Vua thấy thế mới bảo ông rằng: "Thế giặc mạnh lắm, trẫm sợ đánh nhau mãi khổ dân. Hay là trẫm hàng cho dân khỏi khổ?" Ông tâu rằng: "Bệ hạ phán thế, thực có bụng thương dân lắm; nhưng dám xin Bệ hạ biết cho rằng cái đạo làm vua, trước hết phải gìn giữ lấy giang sơn tiên tổ để lại cho đã. Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần đi đã." Vua nghe nói thế, vững dạ, không nghĩ đến việc ra hàng nữa.
Giải nghĩa. - Binh quyền = quyền rèn tập, coi bảo quân lính. - Trẫm = tiếng vua dùng để chỉ mình như ta nói "tôi", "ta", v.v... - Hàng = chịu phục, thôi không dám kháng cự lại, mà theo quyền phép người. - Giang sơn = đất cát, sông núi của một nước.
VUA LÝ THÁI TỔ DỜI ĐÔ RA THÀNH HÀ NỘI
Vua Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư là chỗ nhà Đinh và nhà Lê đóng đô trước chật hẹp quá, mới dời đô ra thành Đại La là nơi thủ phủ nước ta về cuối thời nội thuộc Tàu. Sử chép rằng khi thuyền rồng nhà vua ra đến nơi, thì thấy một con rồng vàng bay lên trời. Nhà vua cho là điềm tốt mới đổi tên là Thăng Long nghĩa là "Rồng lên". Thế là thành Thăng Long, tức là thành Hà Nộ bây giờ, thành ra kinh đô nước Việt Nam.
Giải nghĩa. - Thủ phủ = chỗ các quan cai trị một hạt đóng. - Điềm = cái chứng triệu gì cho ta biết rằng công việc sau này tốt hay xấu. - Kinh đô = chỗ có triều đình nhà vua.
Thành Thăng Long là thành
Hà Nội ngày nay
VUA LÊ THÁNH TÔN
Vua Lê Thánh Tôn sai quan làm bộ quốc sử và vẽ địa đồ nước ta. Ngài họp tập các nhà danh sĩ thời bấy giờ và khuyến khích việc văn học, ngài có soạn ra nhiều thơ chữ nho và thơ nôm nữa.
Ngài tìm cách mở mang nghề làm ruộng và nghề chăn nuôi. Ngài cho khai khẩn những đất hoang, mở ra hơn bốn mươi sở đồn điền cho dân nghèo khổ có việc mà kiếm ăn. Ngài lập ra nhà tế sinh để nuôi những người già yếu tàn tật, không có nơi nương tựa; khi nào có dịch tễ thì sai quan đem thuốc phát cho các người mắc bệnh.
Ngài lại đánh lấy được nước Chiêm Thành nữa.
Nói tóm lại đời vua Lê Thánh Tôn là một thời kỳ vẻ vang nhất trong lịch sử nước Nam.
Giải nghĩa. - Danh sĩ = người làm văn có tiếng. - Thơ nôm = thơ tiếng ta.
Vua Lê Thánh Tôn đánh được nước Chiêm Thành
NGOAN (GIỎI) ĐƯỢC KHEN, HƯ PHẢI CHÊ
Đứa bé yêu mến cha mẹ, vâng lời thầy dạy, là đứa ngoan. Đứa bé kính nể anh chị, nhường nhịn các em, cũng là đứa ngoan. Đứa bé biết lễ phép, ăn ở tử tế với cả mọi người, cũng là đứa ngoan. Ngoan thì ai cũng yêu, cũng khen, cũng chiều chuộng.
Còn những đứa bé không kính mến cha mẹ, không nghe lời thầy dạy, không nhường nhịn anh em và xấc láo với cả mọi người, đều là những đứa hư ca. Hư thì ai cũng ghét, cũng chê, cũng mắng mỏ (la mắng). Vậy các trẻ con đứa nào cũng nên ăn ở cho ngoan ngoãn.
Giải nghĩa. - Chiều chuộng = theo ý mình mà làm cho mình bằng lòng. - Xấc láo = vô phép, ngược đãi người bề trên, cũng như hỗn hào, xấc xược.
bé = nhỏ.
Ngoan được khen, hư phải chê
MẤY LỜI KHUYÊN VỀ VỆ SINH
Khi chơi đừng có chạy nhanh lắm.
Khi mồ hôi chảy, chớ có uống nước lã, chớ có đứng chỗ luồng gió (gió lồng).
Trời mưa ẩm ướt, chớ có chơi đùa dầm châm ở dưới nước.
Đi đường gặp mưa, quần áo có ướt phải thay ngay.
Những khi ngủ, phải đắp bụng, ăn uống phải có điều độ.
Khi ốm đau, không nên ăn đồ độc: có kiêng có lành.
Giải nghĩa. - Luồng gió = lối gió thổi mạnh. - Kiêng = giữ không ăn hay không làm những cái gì có thể hại đến sức khỏe.
nhanh = lanh.
Khi có mồ hôi không nên uống nước lã
TRUYỆN GƯƠM THẦN CỦA VUA LÊ LỢI
Tục truyền rằng vua Lê Lợi, trước khi nổi lên đánh quân Minh, vẫn ở Hà Nội làm nghề đánh cá.
Một hôm ngài quăng lưới xuống hồ Hoàn Kiếm, bấy giờ còn gọi là hồ Tả vọng, lúc kéo lên không được cá, lại được một thanh gươm rất đẹp, lưỡi rộng, cứng mà sáng loáng. Ngài được thanh gươm ấy, nổi lên đánh quân Tàu, đuổi ra ngoài nước, rồi lên ngôi vua ở Thăng Long (Hà Nội bây giờ).
Một hôm ngài ngự thuyền chơi trên hồ; ngài thấy có một con rùa to nổi lên, bơi lại gần ngài. Ngài sợ, lấy gươm gạt ra, nhưng con rùa đớp lấy gươm rồi biến mất. Ngài bấy giờ mới biết rằng con rùa ấy là vị thần hồ đã giúp ngài đánh quân Tàu. Sau người ta xây ở giữa hồ một cái tháp gọi là "Quy sơn tháp" (tháp Núi rùa), còn cái hồ ấy thì gọi là "Hoàn kiếm hồ" (hồ giả gươm).
Giải nghĩa. - Ngự = tiếng để chỉ những việc vua làm, hay là những cái gì vua dùng như: ngự lãm (vua xem), ngự thuyền (vua đi thuyền), ngự bào (áo vua mặc).
Con rùa thần nổi lên mặt nước
ÔNG LÊ LAI LIỀU MÌNH CỨU CHÚA
Vua Lê lợi bấy giờ ở Chí Linh bị quân tàu vây riết lắm; quân giặc sắp hạ được đồn, vua Lê tất bị giết. Vua mới hỏi tướng tá rằng: "Ai dám thay trẫm ra phá vòng vây, đánh nhau với giặc? Người ấy sẽ bị giặc bắt, còn trẫm thì nhân lúc giặc lui, mộ thêm quân, hợp binh lại, mưu sự báo thù." Ông Lê Lai ra nhận việc ấy.
Ông mặc áo ngự bào, cưỡi voi ra ngoài đồn, tự xưng là "Bình định vương" là hiệu vua Lê Lợi bấy giờ. Quân nhà Minh tưởng là vua Lê Lợi thực, xúm nhau lại bắt ông giết đi. Ông Lê Lai liều mình như thế thành ra cứu được vua Lê Lợi thoát nạn, mà nhân đó nước ta mới được tự chủ, khỏi phải quân Tàu áp chế.
Giải nghĩa. - Vây = cho quân đứng quây xung quanh mà đánh. - Riết = quân vây rất nhiều mà đánh rất hăng. - Hạ = đánh lấy được. - Ngự bào = áo vua mặc. - Áp chế = đè nén, hà hiếp.
Ông Lê Lai cứu vua khỏi chết, cứu nước khỏi khổ.NGÀY GIỖ
Trên bàn thờ, đồ đồng, đồ sơn bóng lộn (trong bóng), đèn nến sáng choang, khói hương nghi nghút, trông thật là nghiêm trang. Thầy tôi đứng ở trước, châm một nắm hương, cắm vào bình hương, lạy hai lạy, rồi quỳ xuống hai tay chắp để ngang trán, miệng lẩm nhẩm khấn. Thầy tôi khấn và lạy xong, thì đến những người trong họ và chúng tôi cứ lần lượt vào lạy, mỗi người bốn lạy. Lễ xong một chốc hết tuần hương, thì cỗ bàn trên bàn thờ hạ xuống, dọn rượu, cả nhà hội họp ăn uống rất vui vẻ.
Giải nghĩa. - Bóng = nhẵn và sáng trông nhấp nhánh. - Lẩm nhẩm = nói sẽ trong mồm, người ngoài không nghe tiếng. - Tuần hương = một lượt hương cháy hết.
nến = sáp.
Khói hương bay nghi ngút
BỮA CƠM NGON
Cậu Tí đi học về một chốc, thì cha ở ngoài đồng cũng vác cày, dắt (dắc) trâu, về đến nhà.
Cơm đã chín. Mẹ và chị dọn ra để trên gường. cả nhà ngồi ăn. Cơm đỏ, canh rau, chẳng có gì là cao lương mỹ vị. Nhưng cơm sốt, canh nóng, bát đũa sạch sẽ cả nhà ăn uống ngon miệng no nê.
Nhất là cha mẹ, con cái, trên thuận dưới hòa, một nhà đoàn tụ sum họp với nhau, thì dẫu cơm rau cũng có vị lắm.
Giải nghĩa. - Cao lương mỹ vị = đồ ăn quí, đắt tiền. - Sum họp = họp mặt đông đủ. - Có vị = ăn ngon miệng.
Cơm sốt canh nóng ăn ngon
CON CHIM VỚI NGƯỜI LÀM RUỘNG
Chim là loài ăn những côn trùng làm hại lúa. Nhờ có chim mới trừ được những giống ấy. Chim có thể đuổi bắt côn trùng ở trên không, hay nhặt (lặt) nó ở luống cày. Chim chính là tuần ngoại của ta đó. Người làm tuần ngoại, thì chỉ giữ được kẻ trộm cắp hoa màu mà thôi, chứ chim làm tuần ngoại, thì mới giữ nổi các loài sâu bọ đâu đâu cũng vào lọt.
Vậy loài chim có ích cho nhà nông lắm. Chớ nên giết hại nó.
Giải nghĩa. - Côn trùng = nói chung các loài sâu bọ. - Trừ = làm mất đi, giết đi. - Tuần ngoại = tuần coi lúa má ở ngoài đồng. - Hoa màu = các thứ cây ăn được trồng ở nơi cạn như: ngô, khoai, rau đậu.
nhặt = lượm.
Không nên giết hại loài chim vì nó có ích cho người làm ruộng.
ĐỨA BÉ VÀ CON MÈO
Cô Mão thơ thẩn ngồi chơi một mình ở trong vườn. Cô thấy con mèo lượn qua, cô gọi, cô vẫy lại. Mèo đến lẩn quẩn ở bên cạnh, cái đuôi ve vẩy như vui mừng, cái đầu ngẩng lên như chào hỏi, miệng thì kêu "meo meo" ra dáng bằng lòng lắm.
Cô Mão chơi với con mèo cũng lấy làm vui thích. Cô lấy tay vuốt ve nó, ôm nó vào trong lòng. Nhưng được một chốc, cô nắm lấy đuôi con mèo, kéo một cái thật mạnh. Mèo bị đau, giận quá, giơ ngay chân ra cào cô một cái, xước cả tay, rồi bỏ mà đi mất.
Cô Mão xít xa, lại thơ thẩn ngồi một mình ở trong vườn. Thế mới biết người ác chẳng ai chơi với.
Giải nghĩa. - Thơ thẩn = buồn bã, vì chỉ có một mình. - Lẩn quẩn = quanh ở bên mình không rời đi chỗ khác. - Xít xa = ý nói đau đớn, muốn kêu cho ra tiếng. Có nơi gọi là thít tha.
bé = nhỏ. - vẫy = ngoắc.
Không ai muốn làm bạn với người ác
CÁI CÒ, CÁI VẠC, CÁI NÔNG
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng.
Cái cò, cái vạc, cái nông,
Sao mày giậm lúa nhà ông, hỡi cò?
Không, không tôi đứng trên bờ,
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi.
Chẳng tin thì ông đi đôi,
Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.
Đại ý. Bài này lấy chuyện con, cò, con vạc, con nông, mà ngụ cái ý chê người nhà quê hay có tính xấu đôi co (chối) mách lẻo.
Giải nghĩa. - Cái vạc = tức là con vạc, một thứ chim về loài cò, lông xám hay lốm đốm, thường đi ăn về ban đêm. - Cái nông = một thứ chim thuộc về loài vịt, ta thường gọi là bồ nông hay bè bè, mình to bằng ba con vịt, mỏ dài và ở dưới có cái túi để đựng cá. - Đi đôi = đi đôi co (chối) để đối tụng.
Ta không nên đôi co mách lẻo
LÀM NGƯỜI PHẢI HỌC
Ngọc kia chẳng giũa, chẳng mài,
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi.
Con người ta có khác gì,
Học hành quí giá, ngu si hư đời.
Những anh mít đặc thôi thời,
Ai còn mua chuộc, đón mời làm chi.
Đại ý. Bài này nói người ta không học, thì ngu dốt, chẳng biết nghĩa lý gì. Ví như hòn ngọc dẫu quí, nhưng không giũa không mài, thì cũng chẳng thành đồ mà dùng được. Vậy người ta ai ai cũng phải học thì mới khôn.
Giải nghĩa. - Vô dụng = không dùng được việc gì. - Quí giá = tôn trọng lên. - Hư đời = hỏng cả đời người, chẳng làm được việc gì. - Mít đặc = dốt chẳng biết một tí gì cả.
Làm người phải học
MỘT KẺ THOÁN NGHỊCH: MẠC ĐĂNG DUNG
Bấy giờ là lúc nhà Hậu Lê đã suy. Vua thì nhu nhước hèn yếu. Trong nước thì giặc giã nổi lên. Giắc đến đánh phá kinh thành, vua phải chạy trốn. Mạc Đăng Dung là quan coi lính túc vệ ra cầm quân đánh giặc, tan rồi, nhân dịp ấy giữ lấy binh quyền và các quyền hành trong nước, việc gì cũng quyết định cả. Vua thấy thế lo sợ, chạy trốn, định lấy quân các nơi về đánh Đăng Dung. Nhưng Đăng Dung bắt được vua, đem giết đi rồi tự xưng làm vua mà lập ra nhà Mạc.
Tuy Đăng Dung đã lên ngôi rồi, nhưng trong nước còn nhiều người theo về nhà Lê.
Giải nghĩa. - Thoán nghịch = người bầy tôi làm phản đánh lại nhà vua cướp lấy ngôi. - Lính túc vệ = lính theo hầu, trông nom cho vua phòng những kẻ phản trắc.
Về cuối đời nhà Lê,
trong nước có nhiều giặc giã
THÚ THẬT
Cậu Tô thơ thẩn chơi một mình ở trong phòng. Bỗng chốc cậu trông thấy có quít để trong nắp quả. Ôi chà! Những quả quít sao mà đỏ đẹp làm cho người ta thèm rỏ dãi (nhỏ nước miếng)! Không sao nhịn được, Tô chạy lại, lấy một trái bóc ăn.
Chiều đến, lúc mẹ về, gọi các con lại để cho quít thì thấy mất một trái. Mẹ liền hỏi: "Đứa nào lấy quít đây?" Tô đỏ bừng mặt, cúi đầu xuống, lẳng lặng một lúc, rồi thú ngay rằng: "Thưa mẹ, con."
Mẹ mắng: "À! Thằng này ăn vụng à! Ăn vụng xấu lắm, từ giờ phải chừa đi. Tao tha cho bận này, vì mày đã biết thú thật mà nhận lỗi."
Giải nghĩa. - Thèm = muốn ăn. - Lẳng lặng = im không nói gì.
Khi phạm lỗi, nên thú thật
HỌC THUỘC LÒNG
Thằng Bút học bài ngụ ngôn. Nó đọc cả bài hai ba lượt rất có ý và nhận nghĩa cho thật hiểu.
Nó đọc câu đầu, rồi không nhìn vào sách mà đọc lại. Nó đọc thong thả, rõ ràng, không sai chút nào.
Nó đọc sang câu thứ hai. Thuộc rồi, đọc lại cả với câu đầu. Rồi nò học luôn như thế cho đến câu cuối cùng.
Sau Bút học lại cả bài, năm bảy bận. Lúc bấy giờ, gấp sách lại, đọc làu làu, chắc mai vào lớp không sợ ngắc ngứ (trúc trắc).
Giải nghĩa. - Ngụ ngôn = chuyện đặt ra, có ý đẻ dạy bảo người ta. - Ngắc ngứ = đọc vấp váp, không trôi chảy. Có nơi gọi là ngúc ngắc.
Đọc bài thuộc làu làu
PHẢI CÓ THỨ TỰ
Đồng hồ đánh bảy giờ. Con Phong ung dung cắp sách đi học. Trong cặp nó đã sắp sẵn đủ cả sách, vở, bút, mực, bút chì và những đồ dùng khác. Ở lớp học cần đến cái gì, là có ngay. Nó không bỏ quên hay để mất cái gì bao giờ.
Hết buổi học về, Phong thay áo, treo lên mắc hay xếp vào hòm (rương), rất cẩn thận. Nên quần áo của Phong lúc nào trông cũng như mới.
Cả đến những chăn, gối, ở trên giường, giày, guốc để ở dưới đất, các đồ chơi để trong rương Phong cũng thu xếp đâu vào đấy, thật là gọn ghẽ. Nên khi dùng đến cái gì, là thấy ngay, không phải tìm (kiếm) mất công mất thời giờ. Phong là một đứa trẻ có thứ tự, ta nên bắt chước.
Giải nghĩa. - Ung dung = ôn hòa, thư thả. - Gọn ghẽ = cái gì cũng có một chỗ để, không bỏ bậy, bỏ bạ.
bút = viết. - chăn = mền.
Đồ đạc xếp đặt có thứ tự
BỊNH CHÓ DẠI
Một hôm thằng Canh đang chăn bò ngaòi bãi cỏ, bỗng chốc nó nghe tiếng lũ trẻ chơi gần đấy kêu ầm lên. Nó ngoảnh lại thì thấy một con chó dại đang đuổi cắn. Thằng Canh sẵn gậy cầm tay, liền chạy lại đánh, thì con chó chồm lên cắn phải tay nó. Nó hăng lên, phang vào đầu con chó mấy cái thật mạnh, thì con chó chết ngay.
Đoạn nó đánh bò về nhà, kể chuyện lại, thì cha nó liền đem nó vào nhà thương để chữa. Được ít lâu thì nó khỏi.
Ấy là nhờ có ông bác sĩ người Pháp là Pasteur đã tìm ra được thứ thuốc chữa bịnh chó dại, thì những người bị chó dại cắn mới chữa được, chư như trước đã bị chó dại cắn, thì mấy khi sống.
Giải nghĩa. - Chồm = nhảy xổ lên. - Phang = cầm gậy đánh thật mạnh. - Nhà thương = nhà chữa bịnh. - Bác sĩ = người học thông thái.
dại = điên.
Ông Pasteur là một người
có công với nhân loại
VIỆN PASTEUR
Có lắm bệnh như bệnh dịch hạch, bệnh tả, bệnh chó dại, bệnh lao, do những con sinh vật rất nhỏ, mắt không trông thấy được, gọi là vi trùng, mà phát ra. Muốn trị các bệnh ấy, trước phải tìm xem giống vi trùng nào gây nên, rồi mới tìm thuốc hoặc để phòng, hoặc để chữa. Nay tìm được như thế là nhờ có một nhà khoa học đại tài người Pháp tên gọi là Pasteur. Chính ông đã tìm ra vi trùng bệnh chó dại và thuốc trị bệnh ấy; nhờ đó mà cứu được biết bao nhiêu là mạng người. Về sau, các nhà khoa học mới theo phương pháp của ông mà tìm ra vi trùng những bệnh khác. Các ông ấy làm việc trong những sở người ta lấy tên nhà khoa học Pasteur mà đặt ra viện Pasteur.
Ở Đông Dương nay có ba viện Pasteur: một viện ở Sài Gòn, một viện ở Nha Trang, một viện ở Hà Nội.
Giải nghĩa. - Sinh vật = tên gọi những giống biết ăn, biết uống, hoặc vận động được, hoặc không, nhưng sinh sản được mà có sống có chết. - Vi trùng = những con trùng nhỏ. - Phương pháp = cách thức mình phải tuần tự theo làm một công việc gì.
Ông Pasteur là một nhà khoa học đại tài
CHÙA LÀNG TÔI
Chùa làng tôi lợp bằng ngói, đàng trước có sân, bên cạnh có ao, xung quanh có vườn. Ở trước sân có tam quan, trên là gác chuông, dưới là cửa để ra vào. Trong chùa, trên bệ cao, thì có nhiều tượng Phật bằng gỗ, sơn son thiếp vàng. Sau chùa thì có nhà tổ và chỗ các sư ở. Hai bên thì là nhà khách. Ngoài sân chùa thì có bia đá, ghi công đức những người đã có công với nhà chùa. Ngoài vườn có vài ngọn tháp, là nơi những vị sư đã tịch ở đấy.
Ngày rằm, mồng một, cứ đến tối, tôi thường theo bà tôi lên chùa lễ. Sư cụ tụng kinh, gõ mõ, ngồi ở trên; bà tôi và các già ngồi ở dưới, vừa lễ vừa nam mô Phật.
Trên bàn thờ thì đèn nến sáng choang, khói hương nghi ngút, trông thật nghiêm trang.
Giải nghĩa. - Tam quan = cửa chính của nhà chùa, có ba cửa ra vào. - Nhà tổ = nhà thờ những vị sư đã tu ở chùa đã tịch rồi.
nến = sáp.
Nhà sư gõ mõ tụng kinh
CƠN MƯA
Trời đương nóng nực, lá cây ngọn cỏ im phăng phắc, bỗng có cơn gió mát thổi. Ngẩng lên trông thấy về phía đông nam mây kéo đen nghịt một góc trời. Ai cũng bảo rằng sắp có trận mưa to.
Ngoài đường cái kẻ đi người lại, người nào cũng bước rảo cẳng (lanh chân) để chóng về đến nhà, hay tìm chỗ trú (núp) cho khỏi ướt.
Ở trong nhà thì tiếng gọi nhau ơi ới chạy mưa. Nào là quần áo, chiếu chăn, thóc lúa, rơm rạ, phải chạy cho mau.
Đâu đâu cũng có tiếng động xôn xao, khác thường.
Duy chỉ có ở ngoài đồng, anh đi cày, chị đi cấy, là cứ điềm nhiên làm việc, vì họ đã phòng bị đủ cả nón và áo tơi rồi.
Giải nghĩa. - Đen nghịt = đen khắp cả, không hở chỗ nào. - Chỗ trú = chỗ nghỉ, chỗ tránh mưa. - Bước rảo cẳng = bước rảo cho nhanh. Có nơi gọi là săn chân. - Chạy = đây là cất đồ vào nhà.
Ngẩng = ngước. - trông = coi. - chăn = mền.
Mây kéo đen nghịt một góc trời
GIÓ
Không khí trên mặt đất chuyển động luôn, không lúc nào đứng yên. Không khí chuyển động là vì nóng lạnh khác nhau. Không khí nóng thì nhe, lạnh thì nặng. Nhẹ thì bốc lên, nặng thì chìm xuống. Bởi thế cho nên chỗ nào không khí nóng bốc lên, thì không khí lạnh đổ xô lại, để bù vào chỗ khuyết.
Cũng như trong nhà đốt lửa thì hơi nóng theo ông khói mà bay lên, hơi lạnh ở ngòai theo khe cửa mà luồn vào.
Ở trên mặt địa cầu cũng vậy, không khí chỗ nóng bốc lên ở chỗ lạnh chạy lại. Không khí chuyển động như thế tức là gió.
Giải nghĩa. - Không khí = khí trời ở trên không. - Chuyển động = chạy đi chạy lại luôn, không đứng yên. - Địa cầu = trái đất.
Cây muốn lặng, gió chẳng đừng
ÔNG NGUYỄN KIM
Khi nhà Mạc cướp ngôi vua rồi, thì ông Nguyễn Kim là người trung thành với nhà Lê, chạy trốn sang Lào. Người Lào giúp ông lương và tiền để ông đánh nhà Mạc phò nhà Lê. Ông lập ông hoàng tử Ninh là dòng dõi nhà Lê lên làm vua, rồi chiêu tập những người còn có bụng giúp nhà Lê.
Lúc ông đã đủ quân lính lương thực rồi, ông bèn về nước, đánh lấy đất Thanh Hóa, Nghệ An, rước vua Lê về, rồi lập một triều đình ở phía Nam. Năm sau ông đem quân ra Bắc đánh nhà Mạc, nhưng đến nửa đường thì bị một người hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết.
Ông Nguyễn Kim thực là một người có công khôi phục lại nhà Lê.
Đền thờ ông nay ở Triệu Tường trong Thanh Hóa.
Giải nghĩa. - Trung thành = có bụng chỉ thờ một người hay một họ đã cho mình ăn lộc. - Chiêu tập = họp lại làm một đảng. - Khôi phục = đánh lấy lại nước, lại quyền.
Ông Nguyễn Kim là một bầy tôi trung
ÔNG TỔ SÁNG NGHIỆP RA NHÀ NGUYỄN:
ÔNG NGUYỄN HOÀNG
Ông Nguyễn Hoàng là con thứ hai ông Nguyễn Kim, làm trấn thủ đất Thuận Hóa.
Lúc ông đến nhậm chức, dân ở đó mang dưng ông bảy chum nước. Ông lấy làm lạ; người cậu bảo ông rằng: "Thế là lòng trời bảo cho mày biết đó: đây là điềm tướng công mở nước sau này đây!" Vì chữ "nước" vừa có nghĩa là "nước uống" vừa có nghĩa là "đất nước".
Về trấn Thuận Hóa rồi, ông bèn ra công làm cho trong hạt được yên ổn, lập đồn canh giữ, khai khẩn đất hoang, chọn dùng những người tài giỏi, hết sức làm cho dân sự mến phục. Ông thực là người gây dựng ra cơ nghiệp nhà Nguyễn ngày nay.
Giải nghĩa. - Trấn = tên đặt cho những tỉnh lớn về đầu nhà Nguyễn. - Trấn thủ = quan cai trị một trấn. - Nhậm chức = bắt đầu nhận công việc làm quan.
Lòng trời tựa ông Nguyễn Hoàng
TRANG SỨC
Cô Năm chẳng học hành gì, chẳng may vá gì. Cả ngày chỉ cái gương, cái lược, chải chuốt, vuốt ve, sắm sửa trong mình cho đẹp. bà mẹ thấy vậy, một hôm mắng rằng: "Mày tường chỉ có môi son, má phấn, áo quần là lượt mới là đẹp thôi ư? Không, con ơi! Người ta đẹp không cốt gì ở cái trang sức bề ngoài. Chỉ có người làm ăn chăm chỉ nết na tử tế mới thật là đẹp mà thôi. Mày học hành khá, khâu vá giỏi, xếp đặt mọi việc trong nhà cho có ngăn nắp, ấy là cái đẹp của mày ở đấy, con ạ."
Giải nghĩa. - Trang sức = quần áo, phấn sáp cho đẹp. - Nết na = tính tốt.
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
ĂN MẶC PHẢI GIỮ GÌN
Cùng một ngày, bà mẹ may cho anh Giáp và anh Ất, mỗi người một cái áo lương. Thế mà chưa được bao lâu, áo của anh Ất đã sờn rách năm bảy chỗ, còn áo của anh Giáp vẫn nguyên lành như mới. Tại sao vậy? Tại anh Ất có áo mà không biết giữ; lúc mặc thì lê la giày vò; lúc cổi ra thì bạ đâu quăng đấy. Trách sao áo không chóng rách được! Còn áo của anh Giáp thì vẫn nguyên lành, là vì khi nào mặc thì anh giữ gìn sạch sẽ, và khi nào cổi ra, thì anh chịu treo, chịu gấp cẩn thận.
Các anh nên bắt chước anh Giáp mà ăn mặc để cho khỏi tổn hại cha mẹ, lại tập được cái tính tốt không đuềnh đoàng (lài xài).
Giải nghĩa. - Lương = có khi gọi là the, một thứ dệt bằng tơ và hay nhuộm thâm. - Sờn = sợi đã bợt ra, sắp rách. - Lê la = bạ đâu cũng sà xuống, không giữ gìn. - Đuềnh đoàng = lười trễ không giữ gìn cẩn thận.
chóng = mau. - đuềnh đoàng = tầm phào.
Ăn mặc phải giữ gìn cẩn thận.
MỘT CÁI THƯ
Tôi viết thư cho anh tôi ở Hải-dương. Tôi lấy một tờ giấy trắng, trên đầu dòng, tôi đề ngày tháng, dưới tôi kể những tin thức ở nhà cho anh tôi biết. Sau tôi chúc cho anh tôi mọi sự bình yên, rồi tôi gấp lại, bỏ vào phong bì trên dán cái tem sáu xu. Xong tôi sai người nhà đem thư ra bỏ vào thùng nhà dây thép cạnh ga. thế là cái thư của tôi chỉ độ chiều mai là xuống tới Hải-dương, có người đem lại tận nhà cho anh tôi. Nghĩ mất có sáu xu mà được việc như thế, thật cũng là tiện lợi.
Giải nghĩa. - Tem = cái dấu in sẵn, phải mua, dán vào thư thì mới gửi được. - Nhà dây thép = nhà gửi các thư từ giấy má. - Ga = nhà xe lửa đỗ.
gấp = xếp. - phong bì = bao thơ.
Nhà giây thép giúp ta được nhiều viêc
THƯ GỬI MỪNG THẦY HỌC
Ngày.......... tháng..... năm.....
Thưa thầy,
Năm mới, con ở nhà được chúc mừng cha mẹ con. Con tiếc không được gần thầy để chúc mừng thầy.
Con còn bé dại, chưa biết viết thư thế nào cho hay. Con chỉ biết chúc thầy được mạnh khỏe, sống lâu, cũng như con đã chúc cho cha mẹ con vậy. Nhân dịp (nhịp) con lại xin hứa cùng thầy rằng: năm nay con hết sức học hành và không bao giờ dám quên công phu khó nhọc thầy dạy dỗ chúng con.
Học trò kính lạy:
Nguyễn văn........
Giải nghĩa. - Mừng tuổi = mừng ai được thêm một tuổi ngày mồng một đầu năm. - Hứa = nhận làm một việc hay nhận cho cái gì.
Mừng tuổi nhau năm mới
LŨY ĐỒNG HỚI
Lũy Đồng Hới là cái lũy chúa Nguyễn đắp lên để giữ bờ cõi cho quân Trịnh ở ngoài Bắc khỏi tràn vào. Lũy ấy bắt đầu từ cửa sông Nhựt Lệ đến chân núi Đầu-mâu, cao gần 6 thước tây, dài 12 ki-lô-mét. Lũy đắp bằng đất, ngoài cắm đà bằng gỗ lim, trong có đường cho voi ngựa đi lại. Lũy ấy kiên cố lắm, thường quân Bắc vào đến đó là không tiến lên được nữa.
Lũy ấy tục gọi là lũy Thầy, vì người đời bấy giờ thường gọi ông Đào Duy Từ là "thầy", mà ông Đào Duy Từ là người vẽ kiểu và trông nom việc đắp cái lũy ấy.
Giải nghĩa. - Bờ cõi = chỗ hai nước giáp nhau. - Đà = ván gỗ cắm xuống đất mà áp sát vào mặt lũy. - Kiên cố = bền chặt, không ai phá được.
Lũy để giữ bờ cõi
CHIM SƠN CA (CHUYỆN CHUYỆN)
Chim sơn ca là một thứ chim ở ngoài đồng, mình và lông gần giống như chim sẻ, nhưng mỏ dài và chân nhỏ hơn.
Chim sơn ca là giống chim hay hót, nhất là về mùa xuân. Thường thường nó vừa bay, vừa hót, càng bay cao, giọng càng véo von. Tiếng hót to, có khi nó bay thật cao, trông không thấy, mà vẫn nghe tiếng hót. Khi không bay thì đậu ở dưới đất chứ không đậu trên cành cây mà những lúc đậu ở dưới dưới đất, thì không hót bao giờ.
Người ta thường nuôi chim sơn ca để nghe nó hót; song nuôi nó thì công phu lắm, và phải bắt từ khi mới nở thì mới nuôi được.
Giải nghĩa. - Véo von = cao giọng mà nghe hay. - Đậu = đứng một chỗ, nói về loài chim.
Chim sơn ca hay hót về mùa xuân
(st)
Viết nhịu tiếng Việt, sự "sáng tạo" hay phá hoại? | for everyone |
- Tôi còn nhớ như in câu chuyện GS. Nguyễn Lân Dũng kể về cụ Nguyễn Lân "làm khó" nhà xuất bản khi họ in cuốn "Từ điển Từ và Ngữ" của ông mà ghi: "Từ điển Từ & Ngữ".
Lý do khiến tác giả Nguyễn Lân "giận dỗi" và nhất định không chịu cho phát hành bộ sách này vì: tiếng Việt không có cái "chữ &" để thay thế cho "và" được. Quả thật, lâu nay chúng ta quen với lối viết "mì ăn liền" và thậm chí còn cho đó là lối viết "sáng tạo", "theo thời".
Trong quá trình thực hiện ebook, ngoài những bản đánh máy rất chuẩn của các thành viên, đôi khi tôi cũng nhận được những văn bản sai vì sự thay thế từ ngữ bằng những con số một cách ngây ngô. Ví dụ:
"Có vô số các cách khác nhau để xem xét và giải quyết 1 vấn đề. Đó có thể là 1 giải pháp bao gồm những phương pháp được mọi người biết đến và đã áp dụng để xử lý các vấn đề khác. Đó có thể chỉ là 1 cách kết hợp những ý kiến hiệu quả đã được biết đến 1 cách có thứ tự để đưa ra 1 giải pháp cụ thể."
Ở đoạn văn trên, tất cả các chữ "một" đều được thay bằng con số 1 mà người đánh máy cho là "tương đương". Đấy là cách hiểu đơn giản và sai lầm. Trong văn bản, số và chữ có chức năng khác nhau, dù đôi khi chúng tương đương nhau về mặt nghĩa. Trong đoạn văn trên, số 1 không thể thay thế cho chữ "một", nhất là trong văn viết, đòi hỏi tính biểu cảm cao.
Tương tự là kiểu viết tắt mang tính "sáng tạo" như "không" viết thành "ko"; "rồi" viết thành "rùi", "lắm" viết thành "lém".v.v.. Những kiểu viết như thế chỉ có ở những tình huống thật đặc biệt và phải có sự thỏa thuận trước giữa người viết và người xem. Điển hình của lối viết này là dùng để nhắn tin qua điện thoại di động, tán gẫu qua mạng internet... nhưng tuyệt nhiên, đấy cũng không phải là thứ ngôn ngữ được thừa nhận một cách chính thức.
Thế hệ trẻ thường ngụy biện cho cái gọi là cuộc sống "công nghệ cao" để rồi "sáng chế" ra một lô những điều quái dị đã góp phần phá hỏng ngôn từ, văn bản tiếng Việt.
Trong quá trình xây dựng TVE, tôi rất dị ứng với kiểu viết kỳ khôi này. Mà không riêng gì tôi, những bạn trẻ hơn khi đọc nó cũng cụt hứng, không muốn trả lời dù họ không ích kỷ trong việc chia sẻ thông tin. Bắt gặp những câu như: "Sao tui down hoài hỏng được vậy trùi, ai biết chỉ dùm, cám ơn lém" thì thường tôi xóa đi hoặc không bao giờ trả lời cho người hỏi. So với số ký tự phải gõ từ bàn phím thì cách nói nêu trên cũng chả tiết kiệm công sức của các ngón tay hơn cách viết đúng đắn. Vậy hà cớ gì phải lấy cái không hay mà tạo thành "văn mình"?
Tôi không gọi những cách viết, biểu đạt như thế là "sáng tạo" như một vài người tự hào. Tôi gọi cách viết cẩu thả ấy là sự phá hoại tiếng Việt không hơn không kém. Phàm sự phá hoại cũng sẽ bị thiệt thòi, đổ vỡ, đối với kiểu phá hoại từ ngữ như vậy, người chịu hậu quả trước tiên vẫn là người viết vậy.
tovanhung
____________
Trăm năm trog cõi ngừj ta
Chữ tài chữ mệh kéo là get nhau
Trải qa một cụs bể zâu
Nhữg dìw trôg thấy mà dau dớn lòg
Lạ zì bỉ săc tư fog
Trời xah qen thói má hồg dáh gen
Cảo thơm lần jở trưs dèn
Fog bìh có lục còn trỳl sử xah
Rằg năm Ja Tĩh trìw Mih
Bốn fưz fẳg lặg hai cih vữg vàg
Có nhà vil ngọj họ Vưz
Ja tư ngĩ cũg thừz thừz bậc trug
Một trai con thứ rôt lòg
Vưz Qan là chữ, nối jòg nho ja
Dầu lòg hai ả tố nga
Thý Cìw là chị, em là Thý Vân
Mai côt cak, tyd tih thần
Một ngừj một vẻ, mừj fân vẹn mừj...
Nói chung là mấy bạn vào Blog của DCT comment theo kiểu "nhịu" này thì DCT xóa không thương tiếc và tiếp theo sẽ là xóa FL nữa.
Mấy hôm nay thấy Mul cũng đông rồi, chắc phải xóa FL thôi.
Người ta add mình nhưng đâu phải ai cũng biết mình dị ứng như thế này, người ta comment mà mình lại "lên lớp" này nọ thì không hay chút nào...
Một thoáng do dự.... "nên hay không?"
Ngôn ngữ thời @ của teen | for everyone |
"Hum ni là 14-2 đéy pà kon ạ; hok bjk jo` nay` anh dang lam` j` ta; pun ngu we...” đó
là kiểu viết có thể bắt gặp ở rất nhiều blog, hay tin nhắn của teen.
Một số em còn dùng chữ tây trộn chung chữ ta để bài viết "thú vị và
phong cách hơn".
Lướt qua một số trang web có thể dễ dàng nhận thấy những kiểu viết này khá phổ biến.
Ngôn ngữ lạ của giới trẻ đang len lỏi vào "thế giới ảo". Ảnh minh họa. |
Bạn học sinh lớp 10 có nick Ớt_Chuông viết: “Hum ni là 14-2 đéy pà kon ạ, pợn na đy pán hoa đéy! ty hok lời nhưng thấy zui zui, (Hôm nay là 14/2 đấy bà con ạ, bạn na đi bán hoa đấy! Tuy không lời nhưng thấy vui vui).
Một bạn khác có nick “Thien-than-ho-mẹnh” chia sẻ: “Nó lun mún nó of nó fone or nt or wan tâm như pạn nó vẫn thường thía mek dù zì nó là con gái làm shao có thía!!! …”. (Nó luôn muốn Nó của nó điện thoại, hay nhắn tin, hay quan tâm như bạn nó vẫn thường thế vì nó là con gái làm sao có thể...)
Một
số teen không biết cách định dạng kiểu chữ tiếng Việt trên trang soạn
thảo blog, các em dùng sẵn những gì có ngay trên bàn phím để chữ viết có
thêm thanh cho dễ đọc. Nick “Bé Nhiều Chiện” tâm sự: “Ngoi` pun` hok bjk lem` je^`, vo^ tinh` nghj~ den' anh, hok bjk jo` nay` anh dang lam` j` ta?”. (Ngồi buồn không biết làm gì, vô tình nghĩ đến anh, không biết giờ này anh đang làm gì ta?)
Qua
tìm hiểu, có thể nhận ra một quy luật của kiểu viết này trong blog của
các teen, đó là một số chữ như: b đổi thành p, i thành y hoặc j, c thành
k…
Không chỉ dùng cách viết này trong blog, tin nhắn thường ngày các em gửi cho nhau cũng tràn ngập kiểu viết như vậy. Một nữ học sinh nhắn cho bạn: “Tau pun ngu we” (Tao buồn ngủ quá). Tin nhắn trả lời: “Bit oj, mey mep nhu heo hem bik seo pun ngu wei zj?” (Biết rồi, mày mập như heo không biết sao buồn ngủ hoài vậy).
Lý
giải cho cách dùng chữ kiểu kỳ dị này, Lê Thanh Nga, lớp 11 trường THPT
Lê Quý Đôn chia sẻ, các bạn thính cách dùng chữ này vì nó ngộ ngộ, lạ
và rất xì-tin. "Hơn nữa, khi dùng những chữ kiểu này trong điện thoại sẽ
hạn chế số lần nhấn vào bàn phím cũng như tiết kiệm ký tự, tụi em có
thể nhắn tin nhiều hơn, tiết kiệm tiền hơn. Ví dụ, khi em muốn nhắn chữ
“Đi” trong điện thoại em phải nhấn số 3, rồi 3 lần số 4 thì bây giờ em
chỉ cần nhấn số 3 và số 5 là có được chữ “Dj” nhanh chóng mà các bạn vẫn
hiểu được em đang nói gì", Nga thổ lộ.
Một nam
học sinh lớp 10, thì kể, mẹ em kiểm soát sát sao… thường hay la và cấm
đoán khi em nhắn tin với một bạn nữ nào trong lớp, nhưng từ khi em
chuyển sang cách nhắn tin toàn “ký hiệu”, mẹ vẫn kiểm tra nhưng không bị
la dù vẫn nói chuyện phiếm như trước. "Em cảm thấy chữ viết như vậy rất
vui và hầu như bạn bè em đều nhắn với nhau như thế. Có lần mẹ đọc tin
nhắn trong điện thoại của em xong phá lên cười, rồi chỉ bảo “lo mà học
hành không chết với tôi”, chứ chẳng cằn nhằn nhiều như trước", học sinh
này kể.
Cô Kim Loan, giáo viên dạy môn Văn ở quận Tân Bình chia sẻ, từ
ngữ các em thường xuyên dùng sai nhất là “rồi" biến thành "rùi", "i"
thành "j"... Với mỗi bài kiểm tra, học sinh viết sai chính tả đều bị cô
bôi đỏ, trừ từ 0,5 đến 1 điểm. Có em bị trừ đến điểm âm nhưng cũng từ đó mà ghi nhớ và ít lặp lại.
Theo
chuyên gia tâm lý giáo dục trẻ vị thành niên, việc học sinh cấp 2 và
cấp 3 dùng chữ viết sai bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Rõ ràng nhất,
các em bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ thứ hai mình được học ở trường nên
những từ như “và, hay, hoặc, nhưng, của…”, các em tốc ký bằng “and, or,
but, of…”.
Đôi khi các em học được
từ mới tiếng Anh nào đó muốn nhớ lâu hơn nên dùng xen lẫn tiếng Việt.
Hơn nữa, độ tuổi của các em bị ảnh hưởng bởi tư tưởng muốn khác người,
muốn đổi mới nên chọn cho mình một cách thể hiện khác chữ chính thống,
dù các em đều hiểu được như vậy là sai. Thứ ba là một số em lại dùng
kiểu chữ sai để cha mẹ không hiểu gì cả nhằm thoát khỏi sự kiểm soát….
"Cha
mẹ và thầy cô cần nắm bắt kịp thời việc con em mình dùng chữ sai, có
trách nhiệm chỉ cho các em thấy những ảnh hưởng tai hại của việc lạm
dụng các kiểu chữ này cụ thể qua bài vở các kỳ kiểm tra, thi học kỳ, thi
đại học… kết quả sẽ vô cùng nghiêm trọng khi các em viết sai chính tả không chỉ một vài chữ và cả một trang giấy", chuyên gia này nói.
Nhật My
Viết tắt | for everyone |
1/ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
Trong giờ thi môn Triết, một thí sinh do không học bài nên vò đầu bứt trán nhờ ông bạn thân ngồi bàn dưới cho xem tài liệu. Ông bạn này ném cho 1 mảnh giấy nháp có phần bài giải. Cái “phao” ấy có nhiều chữ viết tắt. Anh thí sinh này khi có tài liệu trong tay, do còn thời gian nên anh ghi ra tường minh, không thèm viết tắt. Khi gặp khái niệm “mối QHBC”, anh quay xuống hỏi nhỏ, ông bạn cũng trả lời khe khẽ: mối quan hệ biện chứng.
Nghe ngóng thế quái nào mà anh thí sinh này diễn đạt thành “mối quan hệ bất chính”, thành ra, bài thi anh có những đoạn đại khái như:
Trên thế giới có hai phạm trù chung nhất và bao quát nhất đó chính là: vật chất và ý thức, cho nên bất kỳ nhà triết học nào khi nghiên cứu đến các vấn đề triết học đều đụng chạm đến mối quan hệ bất chính giữa vật chất và ý thức. Vì vậy: Mối quan hệ bất chính giữa vật chất và ý thức chính là vấn đề cơ bản của triết học.
2/ CĂC
Trong một chương trình phát thanh khuyến nông, một phóng viên viết bài về áp dụng giống mới trong nông nghiệp. Bài viết có đoạn:
Viện nghiên cứu CĂT miền Nam vừa thành công trong việc tạo ra nhiều giống CĂT có chất lượng cao, to hơn các loại giống CĂT truyền thống. Sau khi đưa vào thử nghiệm, các giống CĂT này rất được phụ nữ ưa chuộng…
Chữ CĂT đó viết tắt cụm từ “cây ăn trái”. Nhưng do chị phát thanh viên không hiểu nên cứ thế mà đọc. Chị phát thanh viên này người Nam Bộ, mà người Nam Bộ phát âm phụ âm cuối thì không phân biệt được “t” và “c”, nên từ “cây ăn trái” viết tắt ấy được phát âm thành CĂC.
(st)
Trong giờ thi môn Triết, một thí sinh do không học bài nên vò đầu bứt trán nhờ ông bạn thân ngồi bàn dưới cho xem tài liệu. Ông bạn này ném cho 1 mảnh giấy nháp có phần bài giải. Cái “phao” ấy có nhiều chữ viết tắt. Anh thí sinh này khi có tài liệu trong tay, do còn thời gian nên anh ghi ra tường minh, không thèm viết tắt. Khi gặp khái niệm “mối QHBC”, anh quay xuống hỏi nhỏ, ông bạn cũng trả lời khe khẽ: mối quan hệ biện chứng.
Nghe ngóng thế quái nào mà anh thí sinh này diễn đạt thành “mối quan hệ bất chính”, thành ra, bài thi anh có những đoạn đại khái như:
Trên thế giới có hai phạm trù chung nhất và bao quát nhất đó chính là: vật chất và ý thức, cho nên bất kỳ nhà triết học nào khi nghiên cứu đến các vấn đề triết học đều đụng chạm đến mối quan hệ bất chính giữa vật chất và ý thức. Vì vậy: Mối quan hệ bất chính giữa vật chất và ý thức chính là vấn đề cơ bản của triết học.
2/ CĂC
Trong một chương trình phát thanh khuyến nông, một phóng viên viết bài về áp dụng giống mới trong nông nghiệp. Bài viết có đoạn:
Viện nghiên cứu CĂT miền Nam vừa thành công trong việc tạo ra nhiều giống CĂT có chất lượng cao, to hơn các loại giống CĂT truyền thống. Sau khi đưa vào thử nghiệm, các giống CĂT này rất được phụ nữ ưa chuộng…
Chữ CĂT đó viết tắt cụm từ “cây ăn trái”. Nhưng do chị phát thanh viên không hiểu nên cứ thế mà đọc. Chị phát thanh viên này người Nam Bộ, mà người Nam Bộ phát âm phụ âm cuối thì không phân biệt được “t” và “c”, nên từ “cây ăn trái” viết tắt ấy được phát âm thành CĂC.
(st)
Ngôn ngữ @ | for everyone |
Nhịp
sống càng gấp gáp, các phương tiện hiện đại như internet, mobile càng
gần gũi hơn với sinh hoạt bình thường, thì những ngôn từ mới càng có
nhiều cơ hội để “sinh ra” và “nhảy xổ” vào đời sống hàng ngày.
Những từ ngữ này, không phải là một dạng tiếng “lóng” vốn chỉ dùng trong một cộng đồng nhỏ, mà đã trở thành những từ ngữ bình dân, tự nhiên sinh ra và tự nhiên được chấp nhận.
1001 kiểu ngôn từ
Thứ ngôn ngữ mới này được “chế” bằng đủ mọi cách. Từ lấy tên địa danh (Cao Bằng, Bắc Cạn, Nghĩa Lộ,...), hoa quả (khoai, chuối,...), động vật (rùa, sên…), số đếm (8, 5,…), mượn từ nước ngoài chuyển nghĩa qua tiếng Việt (meo – e-mail; phôn – phone,...), rồi cả tên danh nhân cũng không... kiêng. Cũng có khi các từ mới sinh ra ngắn gọn hơn các từ đúng nghĩa của nó; có khi lại dài hơn, tùy từng hoàn cảnh.
Có những từ thông dụng, đột nhiên bị “pha” giữa Nam và Bắc, hoặc rút gọn, hoặc mượn các chữ cái nước ngoài để diễn đạt, ví như: Bùn wá (buồn quá); E bit rui (em biết rồi); 8 ko? (chat không?); Bibo (tạm biệt); Cu 29 (see you tonight -– hẹn gặp tối nay), G9 (good night –- chúc ngủ ngon)... Lại có những cụm từ được nói ra gần như trở thành “mốt” của những người muốn tỏ ra sành điệu; không biết có phải vì nó vần như Buồn như con chuồn chuồn, chán như con gián...
.....
N kiểu xài
Do tính chất “phái sinh”, chưa được ghi nhận trong từ điển, nhưng như một thứ virus, ngay khi xuất hiện, những từ ngữ vừa mới mẻ, vừa tù mù này đã lập tức lây lan nhanh chóng. Không chỉ ở giới học sinh, sinh viên – vốn là môi trường tốt của các ngôn từ mới - hay ở những người thường rảnh rỗi, ngồi chat chit trong các quán cà phê Internet hoặc lúi húi với chiếc mô-bai nơi quán cóc vỉa hè, ngôn ngữ kiểu agù còn tìm được “đất sống” cả trên phim ảnh, lời bài hát...
Trong bộ phim “Chiến dịch trái tim bên phải”, một đoạn đối thoại của bạn trẻ khiến cho những người lớn phải bật cười với câu “cướp trên giàn mướp” (?!). Trong các tiểu phẩm “Gặp nhau cuối tuần”, các quảng cáo phát trên tivi, cũng thấy nhan nhản những ngôn ngữ kiểu này. Và dường như, có tâm lý cho rằng, không xài kiểu ngôn ngữ này là không “sành điệu”, là “lạc thời”...
Vòng đời ngắn ngủi
Cách đây gần 10 năm, từ “lìu tìu” xuất hiện. “Lìu tìu” nghĩa là gì, không ai giải thích được, cũng không biết nó phát sinh từ đâu, nhưng đụng cái gì, cũng cứ phải thêm chữ “lìu tìu” vào thì nó mới có vẻ. Thế nhưng, như một cơn gió thoảng, từ “lìu tìu” biến mất. Mốt bây giờ, có lẽ thuộc về... “chuối”. Bạ gì cũng thêm “chuối” vào, đến mức, nhiều khi cảm thấy tội nghiệp cho quả chuối nhiều vitamin, lắm công dụng.
Đành rằng, cùng với việc hòa nhập vào nhịp sống hiện đại, sẽ có những từ ngữ mới du nhập vào và khó tìm kiếm từ đồng nghĩa tương ứng trong tiếng Việt; cũng có thể là với 160 ký tự cho một tin nhắn SMS, khó mà trình bày dài dòng; hoặc khi chat, đòi hỏi phần lớn dùng ký tự tiếng Việt không dấu. Nhưng có lẽ, nguyên nhân chính chỉ vì không thể cưỡng lại xu thế hấp thụ những cái mới trong cuộc sống liên tục diễn ra theo hướng “mở”.
Tuy nhiên, xét đi rồi xét lại, những ngôn ngữ mới sinh ra dường như xa lạ với các ngôn từ của tiếng Việt, chẳng những không góp phần làm trong sáng vốn từ vựng của dân tộc, mà nhiều khi, còn khiến cho tiếng Việt trở nên méo mó, sai lệch. Biết là dùng thế thì vui đấy, nhưng liệu chăng, chỉ nên dùng nó ở ngôn ngữ nói, thay vì chấp nhận và tán dương nó trong những “sản phẩm văn hóa” thực sự?
(st)
___________
DCT cũng công nhận dùng nó rất vui. Trong Blog có anh Dơi hay dùng, đọc xong có thể cười thích thú, nhưng DCT không thể nào dùng nó được.
DCT đã chứng kiến tác hại của nó rồi. Những "phong ba bão táp" cứ dồn dập kéo đến với chữ Việt thế này thì còn lâu mới mong nó trong sáng nổi. Rất xin lỗi các bạn comment nhưng DCT lại xóa nó đi chỉ vì DCT rất rất rất... là không thích loại ngôn ngữ @ xuất hiện trong Blog của mình.
Có người còn bảo là muốn dùng ngôn ngữ đó để hòa nhập với thế giới teen của con...Người lớn không làm gương mà còn "hòa tan" kiểu đó thì: "Hic....má ơi!Con chịu thua".
Những từ ngữ này, không phải là một dạng tiếng “lóng” vốn chỉ dùng trong một cộng đồng nhỏ, mà đã trở thành những từ ngữ bình dân, tự nhiên sinh ra và tự nhiên được chấp nhận.
1001 kiểu ngôn từ
Thứ ngôn ngữ mới này được “chế” bằng đủ mọi cách. Từ lấy tên địa danh (Cao Bằng, Bắc Cạn, Nghĩa Lộ,...), hoa quả (khoai, chuối,...), động vật (rùa, sên…), số đếm (8, 5,…), mượn từ nước ngoài chuyển nghĩa qua tiếng Việt (meo – e-mail; phôn – phone,...), rồi cả tên danh nhân cũng không... kiêng. Cũng có khi các từ mới sinh ra ngắn gọn hơn các từ đúng nghĩa của nó; có khi lại dài hơn, tùy từng hoàn cảnh.
Có những từ thông dụng, đột nhiên bị “pha” giữa Nam và Bắc, hoặc rút gọn, hoặc mượn các chữ cái nước ngoài để diễn đạt, ví như: Bùn wá (buồn quá); E bit rui (em biết rồi); 8 ko? (chat không?); Bibo (tạm biệt); Cu 29 (see you tonight -– hẹn gặp tối nay), G9 (good night –- chúc ngủ ngon)... Lại có những cụm từ được nói ra gần như trở thành “mốt” của những người muốn tỏ ra sành điệu; không biết có phải vì nó vần như Buồn như con chuồn chuồn, chán như con gián...
.....
N kiểu xài
Do tính chất “phái sinh”, chưa được ghi nhận trong từ điển, nhưng như một thứ virus, ngay khi xuất hiện, những từ ngữ vừa mới mẻ, vừa tù mù này đã lập tức lây lan nhanh chóng. Không chỉ ở giới học sinh, sinh viên – vốn là môi trường tốt của các ngôn từ mới - hay ở những người thường rảnh rỗi, ngồi chat chit trong các quán cà phê Internet hoặc lúi húi với chiếc mô-bai nơi quán cóc vỉa hè, ngôn ngữ kiểu agù còn tìm được “đất sống” cả trên phim ảnh, lời bài hát...
Trong bộ phim “Chiến dịch trái tim bên phải”, một đoạn đối thoại của bạn trẻ khiến cho những người lớn phải bật cười với câu “cướp trên giàn mướp” (?!). Trong các tiểu phẩm “Gặp nhau cuối tuần”, các quảng cáo phát trên tivi, cũng thấy nhan nhản những ngôn ngữ kiểu này. Và dường như, có tâm lý cho rằng, không xài kiểu ngôn ngữ này là không “sành điệu”, là “lạc thời”...
Vòng đời ngắn ngủi
Cách đây gần 10 năm, từ “lìu tìu” xuất hiện. “Lìu tìu” nghĩa là gì, không ai giải thích được, cũng không biết nó phát sinh từ đâu, nhưng đụng cái gì, cũng cứ phải thêm chữ “lìu tìu” vào thì nó mới có vẻ. Thế nhưng, như một cơn gió thoảng, từ “lìu tìu” biến mất. Mốt bây giờ, có lẽ thuộc về... “chuối”. Bạ gì cũng thêm “chuối” vào, đến mức, nhiều khi cảm thấy tội nghiệp cho quả chuối nhiều vitamin, lắm công dụng.
Đành rằng, cùng với việc hòa nhập vào nhịp sống hiện đại, sẽ có những từ ngữ mới du nhập vào và khó tìm kiếm từ đồng nghĩa tương ứng trong tiếng Việt; cũng có thể là với 160 ký tự cho một tin nhắn SMS, khó mà trình bày dài dòng; hoặc khi chat, đòi hỏi phần lớn dùng ký tự tiếng Việt không dấu. Nhưng có lẽ, nguyên nhân chính chỉ vì không thể cưỡng lại xu thế hấp thụ những cái mới trong cuộc sống liên tục diễn ra theo hướng “mở”.
Tuy nhiên, xét đi rồi xét lại, những ngôn ngữ mới sinh ra dường như xa lạ với các ngôn từ của tiếng Việt, chẳng những không góp phần làm trong sáng vốn từ vựng của dân tộc, mà nhiều khi, còn khiến cho tiếng Việt trở nên méo mó, sai lệch. Biết là dùng thế thì vui đấy, nhưng liệu chăng, chỉ nên dùng nó ở ngôn ngữ nói, thay vì chấp nhận và tán dương nó trong những “sản phẩm văn hóa” thực sự?
(st)
___________
DCT cũng công nhận dùng nó rất vui. Trong Blog có anh Dơi hay dùng, đọc xong có thể cười thích thú, nhưng DCT không thể nào dùng nó được.
DCT đã chứng kiến tác hại của nó rồi. Những "phong ba bão táp" cứ dồn dập kéo đến với chữ Việt thế này thì còn lâu mới mong nó trong sáng nổi. Rất xin lỗi các bạn comment nhưng DCT lại xóa nó đi chỉ vì DCT rất rất rất... là không thích loại ngôn ngữ @ xuất hiện trong Blog của mình.
Có người còn bảo là muốn dùng ngôn ngữ đó để hòa nhập với thế giới teen của con...Người lớn không làm gương mà còn "hòa tan" kiểu đó thì: "Hic....má ơi!Con chịu thua".
Một sự biến dạng đáng buồn! | for everyone |
Đã
từ bao nhiêu năm nay, trong trường học, các thầy cô giáo đã cố công dạy
cho học sinh hiểu rõ chữ và nghĩa câu Tiếng Việt nhưng những sai phạm
về chính tả hầu như không giảm. Bài tập làm văn của học sinh từ tiểu học
đến THCS, thậm chí ngay cả ở bậc THPT, lỗi chính tả mắc rất nhiều. Một
phần do thầy cô không đọc kỹ, sửa kỹ, một phần do học sinh thiếu ý thức
nên lỗi mãi vẫn không sửa được.
Thật
xót xa khi đọc lá thư của một anh bộ đội gửi về cho các thầy cô giáo,
lẽ ra phải cảm động lắm, nhưng khi đập ngay vào mắt dòng chữ đậm nét ghi
bên ngoài phong bì: “Kính gửi thầy cô chường THCS…”, rồi trong thư có những dòng: “em dất nhớ chường mình…” thì…
Chữ
trong nhà trường không được uốn nắn đến nơi đến chốn thì chữ ra ngoài
đường tất nhiên phải có hậu quả tất yếu. Những tấm biển ghi: Lắn càng, xườn xe máy, Bán chứng vịt nộn, Dửa xe, thay rầu, Xửa trữa đồng hồ… nhiều đến mức khó chịu.
Một lần, qua một xã của Vĩnh Phúc, tôi đã được đọc một dòng chữ viết khá to: Cấm nái xe công lông qua đường lày. Không biết ngoài người viết, có còn ai bận tâm với dòng chữ ấy không?
Rồi
một là khác, tôi có hỏi môt anh thanh niên rửa xe máy có dòng chữ viết
sai như trên thì anh ta trả lời: “Viết thế nào mà chẳng được hả cô, miễn
là người đọc hiểu mục đích của mình như cô mang xe vào chỗ cháu để rửa
là được!” Thế còn biết nói làm sao?
Ở bến xe khách huyện Thanh Sơn cũng đầy những dòng chữ như: Cấm người xay rượu lên xe, Hỏi người có chách nhiệm…
Và hơn nữa, ngay trên một tờ báo tỉnh cuối tuần còn thấy có dòng chữ: Muối chộn chanh sẽ giảm độ trua; Các đồ vật bằng cao xu không nên dùng khi đã cũ…!
Đã
bao đời nay ta dùng chữ ta bởi ta được học chữ. Học chữ đúng thì dùng
chữ đúng. Chữ trong nhà trường là gốc để có chữ đúng ở ngoài đường.
Nhưng có lẽ, để không còn tồn tại sự biến dạng này thì không chỉ thầy cô
giáo mà mỗi người đều phải có ý thức gìn giữ sự trong sáng của Tiếng Việt bằng cách có trách nhiệm viết đúng mỗi con chữ của mình.
Uyển Châu
Comments
(5 total) Post a CommentĐầu năm mới, kính chúc bác và thân quyến mọi điều may mắn tốt đẹp nhất
-Thú thật là đọc qua bài viết này, nhà cháu không hiểu là tác giả..chậc! chắc bị hết đề tài để viết rồi thì phải...
Xin được mạn đàm chút về văn học- ngôn ngữ và nghệ thuật
Vấn đề văn học- ngôn ngữ- nghệ thuật là vấn đề thuộc về linh hồn của xã hội. Trong sinh họat nâng cao giác thức, trao đổi kinh nghiệm làm người, người ta dùng văn học nghệ thuật để trình bày, học hỏi và chia sẻ nhận thức của mỗi người cho nhau trong cộng đồng sinh linh.
Từ lâu, người ta đã nhận biết “con người là sinh linh”: Con người là sinh vật có linh hồn.
- Sinh vật: Là động thực vật với lối sống tự nhiên như cây cỏ, muông thú, tuân theo nhu cầu phát triển, mưu sinh; tham lam vật dục là thuộc tính tự nhiên sinh tồn của cơ thể.
- Linh hồn: Giác thức, là khả năng nhận biết; khả năng nối kết “kinh nghiệm nhận thức của qúa khứ với tri giác hiện tại và mộng tưởng về tương lai”. Những trải nghiệm được “giác thức” tích lũy để trở thành những căn tính cá nhân với tầm nhìn thế giới và vũ trụ khác biệt.
Tùy theo “căn tính linh hồn” và cường độ “nhu cầu tham dục sinh vật” thủ đắc đó, cá nhân phát huy nhân sinh quan và những hướng ứng xử khác biệt; ít hay nhiều tàn-ác-tham-dục, hoặc hướng về phía chân-thiện-mĩ.
Cũng từ lâu, để có một cuộc sống an hoà, hạnh phúc, xã hội tốt lành hơn, con người đã biết dựa vào ngọai cảnh và dùng các pháp lễ nhạc (văn-học-nghệ-thuật), tục lệ, luật pháp để huấn linh; để cân bằng tư duy của sinh linh, điều hóa tư duy con người hướng về phía chân thiện mĩ.
Một dân tộc có trình độ văn minh nhận thức cao, lí tưởng là dân tộc có nhiều thành phần con người có đời sống vật chất và tinh thần phong phú và quân bình. Dân tộc có nền kinh tế phồn thịnh và xã hội an lạc; với phần đông dân cư là những sinh linh có tính “tự giác” cao, tôn trong sư thật và an hòa trong ứng xử.
Nếu có lọai văn học nghệ thuật (văn nghệ) hướng về phía chân-thiện-mĩ thì cũng có lọai văn học nghệ thuật chiều theo “ gian-ác-tính”.
Một xã hội phân liệt, xã hội có trình độ văn minh nhận thức thấp, thường có nhiều những sinh linh mang nặng hành trang tâm linh có dạng măc cảm tự ti “thua thiệt, sai trái, phản bội, phạm tội, nghèo hèn vv…”. Do đó, cộng đồng xã hội này cũng có lọai linh hồn “văn nghệ” với nét riêng của họ.
Trong xã hội bị phân liệt đó, nhiều cá nhân thường có những cung cách ứng xử vị kỉ : “khôn nhà dại chợ, thựợng đội hạ đạp, chụp giựt tranh giành, vặt bông, hái hoa hội chợ, lái xe luồn lách cướp đường, giành chỗ vv…”.
Những cá nhân vị kỉ này cũng luôn tìm cách biện bác, nguyền rủa, tráo trở, gian ngoa vv… Và, họ thường lồng ghép tâm linh vị kỉ của họ vào văn nghệ. Điều này dẫn đến việc đánh mất dần tín nghiã, làm đổ vỡ niềm tin. Sinh linh trở thành “trơ” trong ứng xử; nét chân-thiện-mĩ trong văn-học-nghệ-thuật của cộng đồng dân tộc từ từ bị bôi đen.
Một cộng đồng con người vị kỉ, yếu kém ý thức, nền “văn nghệ” của tập thể cũng bị lụn bại dần. Và, những sinh linh đó, tự họ tự đánh mất tự do trong các sinh hoạt kinh-chính-xã của cộng đồng.
Trong thưc tế, người dân bình thường ít khi tiếp cận được với những thễ lọai văn học nghệ thuật (văn nghệ) có nội dung lành mạnh hướng thượng.
Trái lại, người ta thường nhanh chóng tiếp thu những thể lọai văn- ngôn ngữ hay nghệ thuật có màu sắc vật-dục-tính và hướng theo những thể lọai văn nghệ “nhồi não, huấn linh, nuôi sẹo, truyền rao thù-hận-tính và bạo-lực-tính” một cách dễ dàng.
Thật là không hiểu là tại sao tác giả bài viết này lại cho rằng việc dùng ngôn ngữ "nói lái" của trẻ em VN là một điều hay?
Kính bác
P/S: @ mà hình như quê bác hiện giờ cũng ở Vung Tau?
Ngoại trừ những từ nói lái thiếu thanh tao, cách chơi chữ trong nghệ thuật nói lái đã góp phần làm phong phú thêm tiếng Việt .
DCT em đây chắc là yếu kém về nhận thức nên phủ nhận hoàn toàn những gì bác bảo trên kia. Em vẫn nghĩ nói lái là cách chơi chữ đặc trưng của ngôn ngữ Việt Nam bác ạ!
Khi còn nhỏ, tụi em xem truyện "Thằng Vũ" của Duyên Anh rồi đâm ra mê nói lái. Cứ "Lác bá Láng Á Lây Ma Lay Ba lơi a, lem a lý quá lác bá!" mà trao đổi với nhau, hay lắm đó bác (bác dịch thử nhe). Cứ nói thế, bố mẹ bọn em "dịch" mãi cũng không ra. Hehe... Thế mà bỗng dưng bác lại cấm không cho trẻ con chơi trò nói lái vì cho rằng nó chẳng hay ho gì.
Nói lái làm ngôn ngữ Việt phong phú lạ.
Nhà văn Nguyễn Đông Thức có tên thật là Nguyễn Đức Thông, rồi nhà báo Đình Thắng - Thằng Đính, Thế Lữ - Thứ Lễ, nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiên khi viết báo bút danh là Thiên Hằng (thằng Hiên). Hay quá phải không bác?
Nói lái trong văn học cũng nhiều:
Con cá đối nằm trên cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Chim mỏ kiến nằm trên miếng cỏ
Chim vàng lông đá tại vồng lang
Chim sáo sọc chê anh sóc xạo
Con chó què chân bị cái quần che
Cô bé mập ú là nhờ mụ ấp
Thằng nhỏ ốm tong vác cái ống tôm
Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ
Sáng sớm bà Hạc đi bán bạc hà
Cô nàng dâu hứa đi mua dưa hấu
Chàng rể bảnh trai ngồi tại bể tranh
Người mặc áo xanh chính là anh Sáu
Miếng thịt băm nát trong bụng Bác Năm
Anh chàng sứt môi ngồi ăn xôi mứt
Cô gái mồm to lặn lội mò tôm
Nhờ cái búa đỏ chẻ thành bó đũa
Cái nồi cơm thiêu lại dám kêu thơm
Tấm hình lộng kiếng ai đem liệng cống
Cô gái muốn chồng ngó cái móng chuồng.
Đi đâu bỏ con ở nhà
Hỏi em, em nói đi chà đồ nhôm
Đi đâu tay xách nách ôm
Hỏi em, em nói đi chôm đồ nhà
Trông khống vô phòng thấy trống không
Chứa chan sầu lệ chán chưa chồng
Dòng châu lai láng dầu chong đợi
Bóng nhạn lưng chừng bạn nhóng trông
Nhòm ngó đã cùng nơi ngã đó
Mơ mồng bên cạnh gối mền bông
Đêm thâu mưa gió đâu thêm mãi
Xông lướt đi tìm phải xước lông
Đôi lứa duyên đời đưa lối không?
Mong chờ Lão kết giấc mơ chồng
Hoàng hôn chiếc bóng hồn hoang tưởng
“Rừng-nắng” cô phòng “nàng- rướn” trông
Lá đổ muôn chiều bao lỗ đá
Cúc vàng mấy độ các vùng bông
Kê mông tọa tại Mê Kông đợi
Quân tử lỏng cu ghé "Củ lông" (Cửu Long)
Nực cổi chi ra nỗi cực lòng
Dòng châu lai láng đĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó
Công khó nhờ ai có biết không
Đời chua, bậu cứ thử đùa chơi
Chơi ngổ xong rồi, kiếm chỗ ngơi
Lũ quỷ nay lại về luỹ cũ
Thầy tu mô Phật cũng thù Tây.
Kỹ sư đôi lúc là cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày
Giáo chức giờ đây đành dứt cháo
Khoái ăn sang nên sáng ăn khoai
Thầy giáo tháo giày đi dép
Nhà trường nhường trà uống nước trong
Tháng đầy thầy đáng dăm lon gạo
Lương thầy tiền lính tính liền xong
Cầu đạo cho nên phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà sãi
Dầu sãi không tu cũng giải sầu
Rồi thì
Con cua con rồng, Con công con rùa
Con ngan con sếu, Con nghêu con sán
Con sò con cóc, Con sóc con cò
Trạng Quỳnh cũng hay nói lái như "Tượng lo - Lọ tương", "Làm sương cho sáo"...
Còn nữa em có người bạn quen với Chí Minh (bác ấy tên là Chính Mi) có chữ ký thế này:
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi!
Chú khiêng lên hết chiến khu rồi.
Thi đua chi nữa, thua đi mãi
Kháng chiến rao hoài khiến chán thôi!
Ôi chao, nói đến cái sự lái của Tiếng Việt thì đến Tết năm sau cũng chưa hết! Ơ, mà có bao giờ bác AMB thấy con công ngủ chưa?
Vì sự phong phú của tiếng Việt, em nghĩ bác nên xin lỗi "Cách nói lái trong tiếng mẹ đẻ" vì bảo là nó phi nghệ thuật.
Chúc bác và gia đình năm mới hạnh phúc. Nếu có rảnh thì về Nhà thăm chút nhé!
Kính,
À quên, em ở Saigon từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ. Chẳng có ai quen ở Vũng Tàu cả! Chắc hôm bữa bác xem con thằn lằn 2 đuôi của đứa nào đó ở Vũng Tàu rồi nhầm nó với em chăng? :D
Kỹ sư đôi lúc là cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày
Giáo chức giờ đây đành dứt cháo
Khoái ăn sang nên sáng ăn khoai
Thầy giáo tháo giày đi dép
Nhà trường nhường trà uống nước trong
Tháng đầy thầy đáng dăm lon gạo
Lương thầy tiền lính tính liền xong
----------------------------
Cô gái muốn chồng ngó cái móng chuồng.(ghi chú: cái móng chuồng là cái cầu vồng bảy sắc)